Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHÙNG THỊ NGỌC BÍCH ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CĂN CỨ DU KÍCH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946-1954) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Hà nội - 2010 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN PHÙNG THỊ NGỌC BÍCH ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CĂN CỨ DU KÍCH TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1946-1954) Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Quang Hiển Hà nội - 2010 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 2 1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................3 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề......................................................................................4 3. Mục đích nghiên cứu..............................................................................................5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................................6 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.............................................................7 6. Kết cấu luận văn...........................................................................................................7 PHẦN NỘI DUNG Chương 1: ĐẢNG BỘ VĨNH YÊN VÀ ĐẢNG BỘ PHÚC YÊN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CĂN CỨ DU KÍCH GIAI ĐOẠN TRIỂN KHAI CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN TOÀN DIỆN (1946 - 1950) ........................................................................................................................... 8 1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên .............................. 8 1.2. Lãnh đạo nhân dân xây dựng chính quyền và tạo cơ sở cho việc xây dựng căn cứ địa kháng chiến .......................................................................................................................... 17 1.3 Chống giặc lấn chiếm bình định, đẩy mạnh đấu tranh sau lưng địch, bước đầu xây dựng khu du kích và căn cứ du kích (1949 - 1950) ............................................................................ 34 Chương 2: ĐẢNG BỘ VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH DU KÍCH TRONG GIAI ĐOẠN TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN (1951 - 1954) ............................................................................................................................................. 46 2.1. Vừa xây dựng lực lượng kháng chiến, vừa chống địch càn quét, bình định, từng bước phát triển chiến tranh du kích và xây dựng căn cứ kháng chiến vùng địch hậu (1951 - 2/1952) ................................................................................................................................. 46 2.2. Đẩy mạnh cuộc chiến đấu bảo vệ và mở rộng khu du kích, phát triển cơ sở vùng tạm chiếm ( từ tháng 2/1952 đến tháng 8/1953) ......................................................................... 53 2.3 Phối hợp với chiến trường chính trong Đông Xuân 1953 - 1954, mở rộng khu du kích và căn cứ du kích, tiến lên giải phóng quê hương ..................................................................... 67 Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ ........................................... 80 3.1 Một số nhận xét ...................................................................................................................... 80 3.2 Một số kinh nghiệm lịch sử rút ra ......................................................................................... 90 KẾT LUẬN........................................................................................................................106 PHỤ LỤC.........................................................................................................................109 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................115 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Xây dựng căn cứ du kích là một điển hình sáng tạo của Đảng trong việc vận dụng lý luận Mác - Lê Nin về xây dựng hậu phƣơng của chiến tranh cách mạng, nhằm huy động toàn dân tham gia kháng chiến làm cho mỗi ngƣời dân là một ngƣời lính, mỗi làng xã là một pháo đài. Căn cứ du kích là hậu phƣơng của chiến tranh du kích, cung cấp sức ngƣời, sức của cho kháng chiến, đồng thời là cơ sở cho lực lƣợng vũ trang trụ bám tiêu diệt sinh lực địch. Thực hiện chủ trƣơng của Đảng về việc xây dựng chỗ đứng chân ở vùng sau lƣng địch trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở địa phƣơng từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ các làng chiến đấu đơn lẻ đến khu du kích liên hoàn, biến hậu phƣơng của địch thành tiền phƣơng và hậu phƣơng của ta, phá nát hệ thống chiếm đóng, tạo cơ sở tiến công địch từ trong lòng chúng và khai thác sức ngƣời, sức của cho kháng chiến. “Căn cứ địa là một vùng tƣơng đối an toàn, ở đó ta đóng các cơ quan đầu não, huấn luyện bộ đội chủ lực, đào tạo cán bộ, chế tạo vũ khí, đạn dƣợc, chữa chạy thƣơng binh, vv…Có nhiều hạng căn cứ địa: căn cứ địa miền rừng núi, căn cứ địa đồng bằng, căn cứ địa vùng ao hồ” [18, tr. 310]. Khu du kích là khu vực dân cƣ nằm trong vùng địch tạm chiếm, có hoạt động chiến tranh du kích của lực lƣợng kháng chiến và thƣờng xuyên diễn ra tranh chấp giằng co với địch để giành quyền làm chủ hoàn toàn. Khu du kích có các đặc điểm: chính quyền cách mạng chƣa hình thành hoặc đã hình thành nhƣng hoạt động bí mật hoặc nửa công khai, các lực lƣợng vũ trang cách mạng chƣa đủ sức diệt hết các cứ điểm của đối phƣơng; chính quyền và một số cứ điểm của đối phƣơng còn tồn tại nhƣng không đủ sức kiểm soát, khống chế nhân dân nhƣ cũ, các đơn vị nhỏ của đối phƣơng không dám tự do đi lại, các tổ chức phản cách mạng và gián điệp hoạt động nửa công khai, không đủ sức khống chế nhân dân, nhân dân đƣợc cách mạng bảo vệ nhƣng chƣa thoát khỏi sự uy hiếp của 3 đối phƣơng, vừa lo đóng góp cho cách mạng vừa phải cống nạp một phần cho đối phƣơng. So với căn cứ du kích, khu du kích có thể rộng lớn hơn về mặt giới hạn địa lý nhƣng đời sống chính trị xã hội của dân chƣa đƣợc an toàn, ổn định. Khu du kích là bƣớc quá độ từ cơ sở chính trị của kháng chiến tiến lên căn cứ du kích. Căn cứ du kích là khu vực dân cƣ đƣợc giải phóng nằm trong vùng địch tạm chiếm và trở thành chỗ dựa của chiến tranh du kích. Đặc trƣng của căn cứ du kích là: Chính quyền của đối phƣơng đã bị lật đổ, lực lƣợng vũ trang của đối phƣơng đã bị tiêu diệt, các tổ chức chính trị phản động đã tan rã, chính quyền cách mạng đƣợc thành lập công khai quản lý mọi hoạt động xã hội; các đoàn thể cách mạng công khai hoạt động. Tuy nhiên, căn cứ du kích còn nằm trong vòng vây của địch nên bị chúng uy hiếp, tình hình chƣa ổn định. Căn cứ du kích đƣợc củng cố dần, trở thành vùng giải phóng. Sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong việc xây dựng căn cứ du kích ở địa phƣơng phần nào làm sáng tỏ quá trình thực hiện đƣờng lối chiến tranh nhân dân của Đảng, sự lãnh đạo kết hợp giữa tiến công trên chiến trƣờng chính với tiến công ở vùng sau lƣng địch trên một địa bàn cụ thể. Qua đó có thể rút ra những đặc điểm của việc xây dựng căn cứ du kích ở Vĩnh Phúc, một tỉnh trung du đồng bằng Bắc bộ. Việc làm trên cũng ít nhiều bổ sung thêm tƣ liệu cho việc nghiên cứu phong trào chiến tranh du kích trong kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh đó các bài học rút ra phần nào giúp ích cho công tác chỉ đạo cách mạng hiện nay ở địa phƣơng. Với lý do trên, tôi đã chọn “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954)” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Liên quan trực tiếp đến đề tài có một số cuốn sách đã xuất bản: - Cuốn “Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích ở Đồng bằng Bắc bộ” của tác giả Vũ Quang Hiển do Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2001. Đây là một công trình nghiên cứu có tính chất chuyên khảo về căn cứ du kích ở Đồng bằng Bắc bộ dƣới góc độ lịch sử, đặc biệt cuốn sách đã giải đáp đƣợc một cách khá toàn diện những vấn đề liên quan ở khu vực đồng bằng Bắc bộ, là tài liệu 4 quí giúp tác giả luận văn có cách nhìn tổng quát, so sánh, đối chiếu đƣợc khi thực hiện đề tài xây dựng căn cứ du kích ở địa phƣơng. - Tác phẩm “Lịch sử chiến tranh du kích Vĩnh Phúc” tập 1,2,3,4 lƣu tại thƣ viện tỉnh Vĩnh Phúc; Tác phẩm : Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân tỉnh Vĩnh Phúc (1946-1954) do Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Vĩnh Phúc thực hiện năm 1999. Hai cuốn sách là tài liệu quan trọng, cung cấp những thông tin hữu ích về quá trình chuẩn bị lực lƣợng, những chủ trƣơng và chỉ đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc về mọi mặt trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở địa phƣơng. - Lịch sử Đảng bộ Vĩnh Phúc (1930-2005) - Nxb Chính trị quốc gia 2007. Đây là tác phẩm mới xuất bản năm 2007, đƣợc tái bản và chỉnh lý khá hoàn chỉnh, cung cấp cho luận văn những thông tin khái quát nhất về Vĩnh Phúc từ năm 1930 đến năm 2005, đặc biệt là giai đoạn nhân dân Vĩnh Phúc kháng chiến chống Pháp. Ngoài các tài liệu trên, luận văn còn tham khảo các tác phẩm lịch sử của các Đảng bộ huyện, xã trong tỉnh nhƣ: Lịch sử Đảng bộ huyện Vĩnh Tƣờng, Lịch sử Đảng bộ huyện Yên Lạc, Lịch sử Đảng bộ huyện Tam Dƣơng, Lịch sử Đảng bộ huyện Lập Thạch, Lịch sử Đảng bộ huyện Mê Linh... Đây là những tài liệu tham khảo có giá trị định hƣớng và tƣ liệu quý cho luận văn triển khai nghiên cứu đề tài này. Song những cuốn sách đó còn trình bày một cách tổng thể, chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích trong kháng chiến chống Pháp. Hơn nữa, những tài liệu ghi chép từ thời kỳ 1946-1954 ở Vĩnh Phúc do thời gian và lƣu trữ nên còn lại ít, tài liệu còn hầu hết đều cũ nát, giấy mỏng, mờ rất khó khai thác (nhƣ tác phẩm “Lịch sử chiến tranh du kích Vĩnh Phúc” tập 1,2,3,4 ). Do đó, việc nghiên cứu đề tài này là hoàn toàn mới mẻ, tƣ liệu tham khảo chủ yếu là một số bản báo cáo, ghi chép gốc đã cũ lƣu tại Phòng lƣu trữ Văn phòng Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phúc và Thƣ viện tỉnh Vĩnh Phúc cùng một số tài liệu kể trên. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích - Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong việc xây dựng căn cứ du kích ở địa phƣơng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954). 5 - Làm rõ các phong trào quần chúng trong việc thực hiện chủ trƣơng của Đảng bộ. - Bƣớc đầu rút ra một số kinh nghiệm lịch sử về xây dựng căn cứ du kích tại địa phƣơng. Nhiệm vụ - Tập hợp những tƣ liệu lịch sử cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu xây dựng căn cứ kháng chiến ở Vĩnh Phúc. - Hệ thống hoá và trình bày những tƣ liệu ấy qua các giai đoạn phát triển gắn liền với điều kiện cụ thể trong mỗi giai đoạn. - Rút ra nhận xét về sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc, những thành công và hạn chế của quá trình xây dựng căn cứ du kích ở Vĩnh Phúc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu - Những chủ trƣơng và biện pháp của Đảng bộ Vĩnh Phúc nhằm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng căn cứ du kích ở địa phƣơng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. - Quá trình xây dựng và bảo vệ căn cứ du kích ở Vĩnh Phúc trong kháng chiến chống Pháp. Phạm vi nghiên cứu - Về thời gian nghiên cứu của đề tài bắt đầu từ tháng 12/1946, khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ đến khi hiệp định Giơnevơ năm 1954 đƣợc kí kết. Tuy nhiên, để làm rõ những cơ sở của việc xây dựng căn cứ du kích, luận văn cũng đề cập đến một số vấn đề trong thời gian sau ngày cách mạng tháng Tám thành công đến tháng 12.1946. - Về không gian nghiên cứu của đề tài: Tỉnh Vĩnh Phúc đƣợc thành lập từ đầu năm 1950, trƣớc đó, địa bàn Vĩnh Phúc gồm hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, nhƣng là một địa bàn chiến lƣợc, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong suốt cuộc kháng chiến, vì thế trƣớc khi tỉnh Vĩnh Phúc đƣợc thành lập, luận văn để cập tới sự lãnh đạo của hai Đảng bộ Vĩnh Yên và Phúc Yên trong xây dựng căn cứ du kích ở địa phƣơng. 6 - Luận văn tập trung nghiên cứu những chủ trƣơng của Đảng và Hồ Chí Minh về xây dựng hậu phƣơng trong kháng chiến chống Pháp. - Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, có ảnh hƣởng đến việc xây dựng căn cứ du kích ở Vĩnh Phúc. - Quá trình triển khai thực hiện chủ trƣơng, biện pháp của Đảng ở huyện, xã. 5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu Nguồn tài liệu - Các văn kiện của Trung ƣơng Đảng, các văn kiện của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. - Tài liệu đã xuất bản của các cơ quan nghiên cứu ở Trung ƣơng và địa phƣơng có liên quan. - Các tài liệu lƣu trữ của Tỉnh uỷ và uỷ ban nhân dân Tỉnh gồm các báo cáo hàng năm của các cấp bộ đảng, chính quyền và các cơ quan quân sự tỉnh Vĩnh Phúc. - Tài liệu khảo sát thực tế. Các phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chiến tranh, luận văn sử dụng các phƣơng pháp lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh và sự kết hợp các phƣơng pháp đó. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, khoá luận gồm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Đảng bộ Vĩnh Yên và Đảng bộ Phúc Yên lãnh đạo xây dựng căn cứ du kích giai đoạn triển khai cuộc kháng chiến toàn dân toàn diện (1946-1954). Chƣơng 2: Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo đẩy mạnh chiến tranh du kích trong giai đoạn tiến công chiến lược của cuộc kháng chiến (1951-1954). Chƣơng 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử. 7 CHƢƠNG 1 ĐẢNG BỘ VĨNH YÊN VÀ ĐẢNG BỘ PHÚC YÊN LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CĂN CỨ DU KÍCH GIAI ĐOẠN TRIỂN KHAI CUỘCKHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN TOÀN DIỆN (1946 - 1950) 1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội của tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên 1.1.1 Về địa lý tự nhiên Tỉnh Vĩnh Yên Ngày 20-10-1980 toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định thành lập Đạo Vĩnh Yên gồm các huyện, phủ sau: - Huyện Bình Xuyên tách từ phủ Phú Bình tỉnh Thái Nguyên. - Phủ Vĩnh Tƣờng gồm 5 huyện: Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dƣơng, Yên Lạc và Yên Lãng từ tỉnh Sơn Tây. Ngày 12-4-1891, toàn quyền Đông Dƣơng lại ra nghị định bãi bỏ đạo Vĩnh Yên, đƣa đạo này trở về tỉnh Sơn Tây, kể cả huyện Bình Xuyên. Ngày 29-12-1899 do “tình hình chống đối liên miên của dân chúng và sự cần thiết phải can thiệp trực tiếp vào cuộc cai trị” nên toàn quyền Đông Dƣơng Pôn - Đume ra nghị định số 1124 thành lập tỉnh Vĩnh Yên. Điều 1 của Nghị định ghi: “ở Bắc Kỳ thành lập một tỉnh mới mang tên : Tỉnh Vĩnh Yên. Trung tâm của khu vực hành chính này đặt tại vùng đất thuộc xã Tích Sơn sẽ đƣợc gọi là Vĩnh Yên”. Điều 2 ghi : “ Tỉnh Vĩnh Yên bao gồm các huyện Bạch Hạc ( trong đó có Vĩnh Tƣờng), Yên Lạc, Yên Lãng, Lập thạch, Tam Dƣơng và Bình Xuyên)”. Nhƣ vậy, tỉnh Vĩnh Yên đƣợc lập lại và đi vào hoạt động từ năm 1900. Tỉnh Phúc Yên Ngày 6-10-1901, toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định thành lập tỉnh Phù Lỗ. Địa giới hành chính bao gồm địa bàn 3 huyện cắt từ Bắc Ninh sang là Đa Phúc, Kim Ạnh và Đông Khê cùng phủ Yên Lãng nhƣ đã nói trên. Tỉnh lỵ đặt tại làng Phù Lỗ, nên gọi là tỉnh Phù Lỗ. Ngày 18-2-1904 tỉnh lỵ rời làng lên làng Tháp Miếu, tổng Bạch Trữ, Phủ Yên Lãng và đặt tên tỉnh là Phúc Yên. Ngày 7-3-1913, chính quyền thực dân đƣa tỉnh Phúc Yên xuống cấp Đại Lý (gọi là Đại Lý Phúc Yên) lệ thuộc tỉnh Vĩnh Yên. 8 Ngày 28-12-1915, Thống sứ Bắc Kỳ ra Nghị định xoá bỏ Đại lý, lập lại tỉnh Phúc Yên gồm hai phủ Đa Phúc và Yên Lãng, hai huyện là Đông Anh và Kim Anh. Phúc Yên trở thành một tỉnh độc lập và là tỉnh nhỏ nhất xứ Bắc Kỳ. Theo thống kê của chính quyền thực dân Pháp, năm 1905, hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên có 9 phủ, 83 tổng, 569 làng. Trong suốt thời kỳ thực dân Pháp thống trị nƣớc ta đến cách mạng tháng 8, đơn vị hành chính Vĩnh Phúc cơ bản ổn định, chỉ có thay đổi chút ít về điều chuyển, thêm bớt một số làng. Còn về tên của hai tỉnh, theo giải thích của sách Địa chí Vĩnh Yên và Địa chí Phúc Yên xuất bản năm 1932 và 1933 là do ghép tên của hai phủ hoặc hai huyện to nhất của mỗi tỉnh mà thành: Đa Phúc với Yên Lãng thành Phúc Yên; Vĩnh Tƣờng với Yên Lạc thành Vĩnh Yên. Cách mạng tháng Tám thành công năm 1945 đã mở ra một trang mới cho lịch sử dân tộc. Nhƣng rồi với dã tâm xâm lƣợc, thực dân Pháp đã quay lại nổ súng xâm lƣợc miền Nam Việt Nam hòng cƣớp nƣớc ta một lần nữa, từ đây dân tộc Việt Nam bƣớc vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh đó, đầu năm 1950, nhằm tăng cƣờng sự chỉ đạo phong trào đấu tranh hậu địch, tăng cƣờng lực lƣợng ta về mọi mặt, đƣa cuộc kháng chiến chống Pháp sang một giai đoạn mới, Thủ tƣớng Chính phủ ra Nghị định số 03- TTg ngày 12-2-1950 hợp nhất tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên thành tỉnh Vĩnh Phúc. Khi ra đời, tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm 3 phủ, 6 huyện là phủ Vĩnh Tƣờng, phủ Đa Phúc, phủ Yên Lãng; các huyện: Yên Lạc, Lập Thạch, Tam Dƣơng, Bình Xuyên, Kim Anh, Đông Anh [1, tr.21]. Năm 1950, khi hợp nhất tỉnh, Vĩnh Phúc có diện tích 1.715 km với dân số gần 47 vạn ngƣời, bao gồm 14 dân tộc anh em. Đồng bào các dân tộc thiểu số sống rải rác ở 17 xã dọc núi Tam Đảo và Sáng Sơn của năm huyện Tam Dƣơng, Bình Xuyên,Lập Thạch, Kim Anh và Đa Phúc. Đại bộ phận nhân dân theo đạo Phật, có gần 2 vạn ngƣời theo đạo Thiên chúa giáo. Vĩnh Yên và Phúc Yên là tỉnh đồng bằng, là miền chuyển tiếp, cầu nối giữa các tỉnh miền núi Việt Bắc với thủ đô Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc bộ. Phía đông và phía nam giáp thủ đô Hà Nội và tỉnh Hà Tây; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía bắc giáp tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Tuyên Quang. Ở vị trí cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nƣớc, nên nhân dân Vĩnh Phúc rất nhanh nhạy nắm bắt thời cuộc, sớm tiếp thu ảnh hƣởng của 9 phong trào yêu nƣớc, phong trào cách mạng của thủ đô và của các tỉnh lân cận. Cũng do vị trí ấy, thời kỳ vận động cách mạng tháng Tám, Trung ƣơng Đảng đã chọn vùng Phúc Yên làm An toàn khu (ATK) chính thức của Ban thƣờng vụ Trung ƣơng; Xứ uỷ chọn Vĩnh Yên làm khu ATK dự bị của Xứ uỷ. Về phía địch, để bảo vệ Hà Nội, ngoài việc cho xây dựng sân bay Hƣơng Gia, lập xƣởng sản xuất vũ khí, xây dựng các kho tàng quân sự, chúng còn lấy địa bàn Phúc Yên làm căn cứ điểm cho quân lính thay phiên nhau đến tập trận hàng năm và đặt tại đây một trƣờng huấn luyện lính khố xanh toàn Bắc Kỳ. Địa bàn hai tỉnh hình thành ba vùng: rừng núi, gò đồi và đồng bằng. Vùng rừng núi nằm ở phía Bắc tỉnh, tiếp giáp với núi rừng của hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên, trong đó có hai dãy núi quan trọng: dãy Tam Đảo (ngọn cao nhất 1.591m), và dãy Sáng Sơn cao 633m. Vùng Đồng bằng nằm phía nam tỉnh bao bồm các huyện : Mê Linh, Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc. Giữa vùng rừng núi và vùng đồng bằng và vùng đồi gò xen kẽ nhau từ đông sang tây. Sông Lô ở phía tây dài 37km, sông Hồng chảy từ phía tây xuống phía nam tỉnh dài 40km. Trong địa phận tỉnh còn có nhiều sông ngòi nhỏ chảy qua từ chân núi Tam Đảo xuống vùng đồng bằng, trong đó có hai con sông chảy dọc giữa tỉnh là sông Phó Đáy và sông Cà Lồ. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều đầm hồ lớn nằm phía nam nhƣ đầm Vạc, đầm Rƣợu, đầm Đông Mật, đầm Rƣng… Để khai thác tối đa mọi nguồn tài nguyên của đất nƣớc ta, thực dân Pháp đã chú trọng xây dựng hệ thống giao thông vận tải ngay từ buổi đầu đến xâm lƣợc. Với vị trí chuyển tiếp giữa các vùng của Bắc bộ, Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông khá thuận lợi bao gồm cả đƣờng bộ, đƣờng sắt và giao thông gồm đƣờng quốc lộ số 2 Hà Nội - Hà Giang chạy qua Vĩnh Phúc hơn 50 km, song song với đƣờng sắt Hà Nội - Lao Cai. Quốc lộ 2B Vĩnh Yên đi khu nghỉ mát Tam Đảo, quốc lộ 2C Vĩnh Yên qua Tam Dƣơng - Lập Thạch đi Tuyên Quang. Bên cạnh quốc lộ, các đƣờng nội tỉnh chạy từ vùng đồng bằng lên vùng rừng núi nhƣ đƣờng 12,13, 23, 40, 129… với tổng chiều dài hơn 200km cũng đƣợc xây dựng rất sớm. Sông ngòi ở Vĩnh Phúc nhiều nên mạng lƣới giao thông đƣờng thuỷ trên các sông nhƣ sông Hồng, sông Lô tƣơng đối phát triển. Khi phát xít Nhật chiếm đóng 10 Vĩnh Phúc (1941), chúng cho xây dựng sân bay Hƣơng Gia (huyện Kim Anh) làm sân bay quân sự, phục vụ cho nhu cầu chiến tranh. Những đặc điểm về địa lý, địa hình trên đây nói lên Vĩnh Phúc là một tỉnh có vị trí rất quan trọng cả về kinh tế và quân sự. Thiên nhiên với địa hình, đất đai, khí hậu… ở Vĩnh Phúc đã đem lại những thuận lợi nhƣng đồng thời cũng đem lại không ít khó khăn, thử thách. Những thuận lợi tạo ra khả năng xây dựng một nền kinh tế nông nghiệp tự cấp, tự túc, bảo đảm yêu cầu thiết yếu cho cuộc sống và chiến đấu. Song những khó khăn lại đòi hỏi cƣ dân ở đây phải cố kết chặt chẽ, phải biết lợi dụng quy luật tự nhiên, và đấu tranh chống lại sự tàn phá của tự nhiên, tạo điều kiện cho ý thức cộng đồng sớm hình thành và phát triển. Trong chiến tranh địch có khả năng phát huy sức mạnh của những phƣơng tiện và vũ khí hiện đại, nhất là không quân và pháo binh để tác chiến tập trung, hiệp đồng binh chủng trên quy mô lớn, cơ động nhanh, nhƣng địch cũng khó có thể tiến công bằng bộ binh cơ giới theo tuyến hàng ngang nhƣ trên các bình nguyên ở Châu Âu vì gặp phải sự cản trở của sông ngòi, ao hồ, ruộng nƣớc và những con đƣờng nhỏ hẹp chỉ dùng cho ngƣời đi bộ và xe thô sơ, nhất là vào mùa mƣa. Ta có thể lợi dụng và cải biến địa hình địa vật để tiến hành một cuộc chiến tranh du kích lâu dài, có thể xoay vần cùng với kẻ địch để duy trì và phát triển lực lƣợng, chủ động đánh địch với những hình thức thích hợp khi có thời cơ. Về kinh tế xã hội hai tỉnh: Vĩnh Yên và Phúc Yên là vùng đất mà ngƣời Việt cổ đến cƣ trú từ rất sớm. Điều này đƣợc khoa học khảo cổ xác nhận. Căn cứ vào các cuộc khai quật khảo cổ ở 3 địa điểm: Lũng Hòa (Vĩnh Tƣờng), Đồng Đậu (Yên Lạc), Thành Dền (Mê Linh) các nhà khoa học đã khẳng định rằng “Ngƣời Việt cổ có mặt ở Vĩnh Phúc từ hơn 3.500 năm nay”[16, tr.58]. Trên địa bàn này, ngƣời Việt cổ đã tiến hành chinh phục vùng đất châu thổ sông Hồng. Dân số của Vĩnh Phúc không lớn hơn 1,1 triệu ngƣời.Ngoài ngƣời Kinh ở tỉnh Vĩnh Phúc có 30 dân tộc thiểu số gồm Tày, Thái, Hoa, Khơ Me, Mƣờng, Nùng, H‟Mông, Dao, Ngái, Sán Chay… 11 Cùng sự phát triển kinh tế xã hội, cho đến trƣớc 1945 ở Vĩnh Phúc, xã hội có sự phân hoá giai cấp sâu sắc. Trong xã hội có đầy đủ các tầng lớp, giai cấp: địa chủ- phong kiến, tƣ sản, tiểu tƣ sản, nông dân, công nhân. Cũng giống nhƣ các vùng quê khác trong cả nƣớc, ở Vĩnh Phúc có phong tục thờ cúng tổ tiên, các vị anh hùng dân tộc, tín ngƣỡng thờ thần… Ngƣời dân Vĩnh Phúc cần cù chịu khó, bằng lao động sáng tạo, trí tuệ và cả xƣơng máu của mình, từ hàng vạn năm, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trƣớc đã bảo vệ và xây dựng quê hƣơng ngày càng giàu đẹp. Kinh tế của Vĩnh Phúc trên cơ sở của nghề nông và đánh bắt cá còn phát triển các nghề thủ công, xây dựng và giao lƣu kinh tế. Đó là những sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ nổi tiếng ở Hải Lựu, ở Lý Nhân, ở Thổ Tang… Về tôn giáo, đại bộ phận dân cƣ chịu ảnh hƣởng của đạo Phật, vai trò của đạo Thiên chúa giáo rất mờ nhạt, số ngƣời theo đạo Thiên chúa rất ít. Là một trong những vùng đất thuộc nền văn minh sông Hồng, bởi vậy Vĩnh Phúc là nơi chứng kiến những bƣớc chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển của lịch sử loài ngƣời. Văn hoá Vĩnh Phúc thấm đẫm dòng văn hoá mẹ của đồng bằng sông Hồng - đó là nền văn hóa nông nghiệp, lúa nƣớc. Văn hoá lúa nƣớc từ ngàn xƣa đã ảnh hƣởng mạnh mẽ đến lối sống của cƣ dân đồng bằng Bắc Bộ nói chung và cƣ dân Vĩnh Phúc nói riêng trong thời cận hiện đại. Nhân dân Vĩnh Phúc không chỉ anh dũng trong chống giặc ngoại xâm , mà còn có truyền thống cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế và văn hoá. Sống ở địa bàn trung du, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng, ngƣời dân Vĩnh Phúc qua bao đời nay đã cần cù cải tạo ruộng đồng, đồi nƣơng, chế ngự thiên tai, để tạo nên những sản phẩm, những đặc sản đã đi vào ca dao truyền tụng trong dân gian, mà nhân dân trong và ngoài tỉnh đều biết đến: Dứa Hƣớng Đạo, gạo Long Trì (Tam Dƣơng), Rau Ngô Đạo, gạo Cốc Lƣơng (Đa Phúc)… Dù sống hàng nghìn năm dƣới ách đô hộ của phong kiến phƣơng Bắc và gần một thế kỷ dƣới ách thống trị của thực dân Pháp, Phát xít Nhật, nhƣng nhân dân Vĩnh Phúc vẫn giữ gìn, bảo tồn đƣợc bản sắc văn hoá dân tộc, vẫn duy trì, phát triển dòng văn học dân gian truyền thống và tạo nên những công trình văn hoá, nghệ 12 thuật đặc sắc có giá trị cho muôn đời sau. Những làn điệu dân ca nhƣ hát xoan ghẹo, hát ví, hát trống quân, hát chèo, hát ca trù… biểu diễn trong các dịp lễ, tết, hội hè, đình đám đƣợc nhân dân rất ƣa thích. Kho tàng ca dao, tục ngữ phong phú, đa dạng, phản ánh kinh nghiệm sản xuất… Những truyền thống văn hiến trên của nhân dân các dân tộc Vĩnh Phúc đƣợc kế thừa và phát triển qua nhiều thế hệ, góp phần tô thắm thêm truyền thống của quê hƣơng và đất nƣớc qua hàng nghìn năm lịch sử. Đó là những cơ sở bền vững, những hành trang quý để Vĩnh Phúc phát triển trong tƣơng lai. 1.1.2. Vài nét về truyền thống văn hiến, yêu nước và cách mạng của Vĩnh Yên, Phúc Yên Điểm nổi bật trong cuộc sống của cƣ dân đồng bằng Bắc Bộ là sức sống bền vững của “làng”. Làng là nơi một cộng đồng ngƣời gắn bó bền chặt với nhau về kinh tế, văn hoá. Làng xã là hạt nhân của xã hội Việt Nam, văn hoá Việt Nam. Làng của ngƣời Việt nổi lên giữa những cánh đồng lúa nƣớc mênh mông, là một loại hình quần cƣ đông đúc vây quanh đình làng với cây đa cổ thụ và giếng nƣớc. Sau những luỹ tre xanh, bến nƣớc, con đò còn ẩn hiện những chùa chiền, đền miếu. Làng xã bao gồm cả khu cƣ trú và đồng ruộng liền khoảnh nhƣng cũng không loại trừ trƣờng hợp xen canh, xen cƣ. Do điều kiện tự nhiên đồng bằng màu mỡ, khẩn hoang thuận lợi, nên làng đồng bằng Bắc bộ vừa đủ lớn, lại vừa trải ra khắp nơi, không kẻ thù nào có thể tiêu diệt đƣợc vì chúng có mạnh đến đâu cũng chỉ là thiểu số, đóng tại một số trung tâm đô thị hành chính. Số làng ở Vĩnh Phúc rất lớn, thƣờng phân bố theo các tuyến, các cụm, nằm sát các trục đƣờng giao thông thuỷ bộ, hoặc thành những xóm nhỏ rải rác giữa đồng ruộng, xung quanh có những luỹ tre tốt dày đặc bao bọc. Những điểm quần cƣ này phù hợp với nền nông nghiệp cổ truyền mà đặc điểm chủ yếu là canh tác lúa nƣớc. Làng đƣợc bảo vệ có ý thức từ xƣa. Ở những làng giàu có thì cách cổng làng khoảng 50m, lại xây điếm canh có tuần phiên canh gác, nhất là về đêm. Trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, làng xã là nơi cung cấp sức ngƣời, sức của cho đất nƣớc, gìn giữ bảo tồn văn hoá dân tộc, chống lại âm mƣu đồng hoá của kẻ thù. Có thể coi làng xã là bộ khung tạo hình cho diện mạo nông thôn Việt Nam, qua hàng ngàn đời kế tiếp nhau; dựa vào làng mạc, từ xƣa, dƣới sự lãnh đạo của các 13 vị anh hùng dân tộc nhân dân hai tỉnh đã bao lần khởi nghĩa chống xâm lƣợc, phong kiến. Trang sử hào hùng đầu tiên về đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Vĩnh Phúc là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng nổ ra năm 40 sau công nguyên. Nhân dân trong tỉnh, địa bàn gốc của cuộc khởi nghĩa do các tƣớng lĩnh cả nam lẫn nữ do Hai Bà Trƣng lãnh đạo đã vùng dậy hƣởng ứng cuộc khởi nghĩa. Số tƣớng lĩnh trên đất Mê Linh lên đến gần 40 ngƣời mà ngày nay tên tuổi vẫn còn lƣu truyền nhƣ Tả đạo tƣớng quân Đạm Nƣơng, Hồng Nƣơng, Thanh Nƣơng, Quách A Tiên Phong, tả Tƣớng Ả Lã, Lê Ngọc Trinh… ngày nay rất nhiều truyền thuyết, thần tích, đền miếu thời Hai bà và các tƣớng lĩnh của hai bà còn truyền tụng trong dân gian. Thế kỉ VI, nhân dân Vĩnh Phúc nổi dậy theo Lý Bí khởi nghĩa chống quân xâm lƣợc nhà Lƣơng với những chiến tích nơi Hồ Điển Triệt còn lƣu giữ. Cuộc kháng chiến chống Tống dƣới triều Lý, nhân dân Kim Anh, Đa Phúc tham gia tích cực vào đắp luỹ, phòng ngự… Hết chống kẻ thù cũ phong kiến phƣơng bắc đến kẻ thù mới là thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, hòa chung không khí chiến đấu của dân tộc, các thế hệ nhân dân Vĩnh Phúc lại một lần nữa vùng lên đánh Pháp. Từ năm 1885 đến năm 1893, hƣởng ứng phong trào Văn Thân, các thổ hào trong tỉnh gồm các ông Đề, ông Đốc, ông Tán… đã dấy binh nổi lên chống Pháp khắp các huyện. Vùng rừng núi Tam Đảo từ năm 1885 trở đi trở thành căn cứ kháng chiến của các đội nghĩa quân. Từ khu rừng Tam Đảo, nghĩa quân toả đi không chỉ các nơi trong tỉnh, mà cả các vùng phụ cận nhƣ Bắc Ninh, Thái Nguyên, Việt Trì… để tấn công tập kích quân Pháp. Hoạt động ở Bạch Hạc, Vĩnh Tƣờng, Tam Dƣơng, Lập Thạch có nghĩa quân của Đốc Khoát, Đốc Giang, Đốc Huỳnh, Đốc Thành. Hoạt động ở vùng Kim Anh, Đa Phúc, yên Lãng có Lãnh Giang, Đốc Két, Tuần Bốn…. Phong trào Văn thân bị dập tắt, Vĩnh Yên, Phúc Yên lại nổi lên các hoạt động chống Pháp của nghĩa quân Hoàng Hoa Thám. Năm 1917-1918, nổ ra cuộc khởi nghĩa của binh lính Thái Nguyên do Đội Cấn (ngƣời làng Vũ Di, huyện Vĩnh Tƣờng) và Lƣơng Ngọc Quyến chỉ huy. Mƣời năm sau, Việt Nam Quốc Dân Đảng - 14 một tổ chức yêu nƣớc có xu hƣớng quốc gia tƣ sản do tiểu tƣ sản trí thức lãnh đạo đã đƣợc thành lập tại Hà Nội (1927). Các yếu nhân của tổ chức nhƣ Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính đã về Vĩnh Yên và Phú Thọ gây cơ sở và hoạt động. Đế quốc Pháp cấu kết với thế lực phong kiến địa chủ phản động thống trị nhân dân ta, không chú ý mở mang đô thị cũng nhƣ phát triển sản xuất công nghiệp. Đồng bằng bắc bộ đƣợc chia thành nhiều tỉnh, phủ, huyện, qua đó các đô thị mang tính chất hành chính ra đời. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, các thành phố , thị xã, thị trấn là nơi đóng các cơ quan đầu não của kẻ thù. Song những trung tâm đầu não, cũng nhƣ hệ thống đồn bốt của giặc lại nằm trong thế bị bao vây, chia cắt bởi các làng mạc. Xây dựng làng kháng chiến ở ngay trong lòng địch, sát đồn bốt địch là cơ sở để tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Khi toàn dân trong làng đƣợc giác ngộ và tổ chức, đƣợc phát động đấu tranh vũ trang thì làng mạc sẽ trở thành làng kháng chiến. Chính sách thống trị tàn bạo của bọn phong kiến, thực dân đối với nhân dân hai tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên đã dẫn đến vùng đất này liên tiếp nổ ra các cuộc bạo động, các cuộc đấu tranh với đủ trào lƣu, xu hƣớng ngay từ khi chúng đặt ách thống trị trên quê hƣơng. Những truyền thống yêu nƣớc chống ngoại xâm của nhân dân Vĩnh Phúc đã dọn đƣờng và tạo tiền đề cho một phong trào cách mạng mới, với một đƣờng lối cứu nƣớc và phƣơng pháp đấu tranh mới, phù hợp với xu thế của thời đại. Đó là phong trào cách mạng do Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Tháng 8-1945, khi các điều kiện tổng khởi nghĩa đã chín muồi, thời cơ tổng khởi nghĩa đã tới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân các huyện, địa phƣơng đã kiên quyết vùng dậy giành chính quyền. Ngày 19-8-1945 khởi nghĩa giành chính quyền ở Phúc Yên, ngày 20 khởi nghĩa ở Yên Lãng, ngày 21 ở Vĩnh Tƣờng, ngày 22 ở Yên Lạc, ngày 24 ở huyện Tam Dƣơng, riêng ở Vĩnh Yên khởi nghĩa đã không giành đƣợc thắng lợi do mất thời cơ. Khởi nghĩa ở Vĩnh Yên để lại bài học sâu sắc cho toàn Đảng bộ trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân trong tỉnh. Sau năm 1945, nhân dân hai tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên đã hăng hái tham gia vào các đoàn thể cứu quốc, tạo cơ sở chính trị vững chắc cho chính quyền cách 15 mạng, tạo chỗ dựa để phát triển thực lực cách mạng, nhất là trong việc động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Phong trào luyện tập quân sự, rèn sắm vũ khí phát triển rộng rãi khắp nơi. Lực lƣợng vũ trang địa phƣơng đƣợc xây dựng nhanh chóng, bao gồm các đội dân quân du kích ở nông thôn, tự vệ chiến đấu ở thành thị, các trung đội vũ trang tập trung ở huyện... Quân dân Vĩnh Phúc nói riêng và quân dân đồng bằng Bắc bộ nói chung vừa ra sức xây dựng lực lƣợng mọi mặt, vừa dốc lòng chi viện cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, góp phần làm thất bại âm mƣu “đánh nhanh thắng nhanh” của giặc Pháp. Trong quá trình lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc, trải qua nhiều thế hệ nối tiếp nhau, nhân dân Vĩnh Phúc mà chủ yếu là nông dân đã xây dựng và thƣờng xuyên bồi đắp những truyền thống tốt đẹp. Đó là tấm lòng thuỷ chung, đoàn kết gắn bó, sớm tối có nhau trong tình làng nghĩa xóm; tinh thần lao động cần cù sáng tạo và tiết kiệm; ý thức độc lập dân tộc và dân chủ tự do, kiên quyết chống ngoại xâm, chống áp bức xã hội, là lòng yêu nƣớc thƣơng nòi, gắn nhà với nƣớc, “còn nƣớc còn nhà”, “nƣớc mất nhà tan”, “vừa đánh giặc vừa cày ruộng”, vừa xây dựng vừa bảo vệ quê hƣơng, vừa xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Những truyền thống và phẩm chất tốt đẹp ấy ngày càng đƣợc phát huy cao độ dƣới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và Hồ Chí Minh, trở thành một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Với những đặc điểm trên Vĩnh Phúc trở thành địa bàn quan trọng cả về kinh tế, chính trị và quân sự, là nơi giành giật quyết liệt giữa ta và địch trong các cuộc đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Vĩnh Phúc cũng nhƣ các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ - nơi có vị trí hết sức quan trọng đối vơi toàn bộ chiến trƣờng Đông Dƣơng, trở thành nơi đọ sức quyết liệt giữa ta và địch. 16 1.2. Lãnh đạo nhân dân xây dựng chính quyền và tạo cơ sở cho việc xây dựng căn cứ địa kháng chiến 1.2.1. Chủ trương xây dựng căn cứ kháng chiến Chiến tranh là sự thử thách toàn diện với mỗi bên tham chiến. Quy luật chiến tranh vô cùng nghiêm khắc: mạnh thì thắng, yếu thì thua. Sự chênh lệch về kinh tế và quân sự giữa Việt Nam và thực dân Pháp là quá lớn. Song Đảng và Hồ Chí Minh đã nhìn nhận vấn đề tương quan lực lượng giữa ta và địch không chỉ về vật chất, mà cả về tinh thần; không chỉ về kinh tế, quân sự mà cả về chính trị, văn hoá; không chỉ thấy lực lượng trong nước mà còn thấy sức mạnh quốc tế. Vì thế Đảng không chịu bó tay trước khó khăn, thử thách, mà kiên quyết phát động cuộc kháng chiến, đồng thời khẳng định kháng chiến nhất định thắng lợi. Lấy nhỏ đánh lớn là đặc điểm cực kỳ quan trọng của cuộc kháng chiến. Tƣơng quan lực lƣợng không cho phép ta dùng lực lƣợng quân sự đơn thuần, tiến hành chiến tranh cổ điển, thông thƣờng mà thắng đƣợc giặc. Nó đòi hỏi phải huy động sức mạnh của cả dân tộc, lấy lực lƣợng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, tiến hành đấu tranh trên tất cả các mặt trận, trong đó đấu tranh quân sự giữ vai trò quyết định. Nó không cho phép ta chỉ dùng quân đội đánh theo cách dàn trận địa, có phân tuyến rõ rệt giữa ta và địch, mà phải phát động đẩy mạnh chiến tranh du kích khắp nơi, đi từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, đánh địch ở cả mặt trận chính diện và sau lƣng chúng. Nó không cho phép ta đánh nhanh thắng nhanh, dốc hết lực lƣợng vào một trận sống mái với kẻ thù, mà phải đánh lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa kháng chiến vừa xây dựng hậu phƣơng, vừa kháng chiến vừa vận động quốc tế; phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, đồng thời ra sức tranh thủ những điều kiện thuận lợi của thời đại mới, từng bƣớc làm thay đổi so sánh lực lƣợng giữa ta và địch, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Chiến tranh càng phát triển thì vai trò lực lƣợng vũ trang càng quan trọng. Để đảm bảo hoạt động xây dựng và tác chiến của lực lƣợng vũ trang phải xây dựng một hậu phƣơng vững mạnh. LêNin nói: “ Muốn tiến hành chiến tranh một cách thực sự, phải có một hậu phƣơng đƣợc tổ chức vững chắc. Một đội quân giỏi nhất, những ngƣời trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ 17 thù tiêu diệt, nếu họ không đƣợc vũ trang, tiếp tế lƣơng thực và huấn luyện đầy đủ” [48, tr.497]. Với cách nhìn toàn diện đó, Đảng và Hồ Chí Minh kiên quyết phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp bùng nổ. Đảng ta khẳng định: “Một khi chiến tranh đã không thể tránh đƣợc,thì phải dốc tất cả cho chiến tranh…”[47, tr.374]. Khi khả năng hoà hoãn không còn nữa, mọi nhân nhƣợng đến giới hạn cuối cùng, sự lựa chọn duy nhất của ta là cầm vũ khí chiến đấu, Trung ƣơng Đảng và Hồ Chí Minh kiên quyết phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Đƣờng lối kháng chiến của Đảng đƣợc xác định trong chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ƣơng Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19-12-1946) và đƣợc giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trƣờng Chinh. Đó là đƣờng lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện. Đây là lần đầu tiên Đảng lãnh đạo quân dân ta tiến hành một cuộc chiến tranh vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc, vừa mang tính chất giải phóng dân tộc trên quy mô cả nƣớc, đƣơng đầu với một Đế quốc lớn mạnh có đế quốc Mỹ giúp sức. Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban thƣờng vụ Trung ƣơng Đảng nêu các khẩu hiệu “Toàn dân kháng chiến!”, “Kháng chiến khắp nơi!”, “Mỗi phố là một mặt trận!”, “Mỗi làng là một pháo đài!”. Trong khi chủ trƣơng động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, xây dựng lực lƣợng vũ trang nhân dân, Đảng đặt vấn đề xây dựng căn cứ địa trong đó có căn cứ địa ở đồng bằng, đó là một trong những điều kiện căn bản để tiến hành kháng chiến và đi đến thắng lợi. Hội nghị cán bộ Trung ƣơng lần thứ 2 (4-1947) phân tích: “Việt Nam không thể có căn cứ địa rộng rãi và vững chắc nhƣ Tàu. Những căn cứ địa ở Việt Nam đều có thể bị địch đánh xuyên mũi dùi vào hoặc bao vây. Nhƣng Việt Nam đã có một mặt trận đoàn kết toàn dân, nhân dân đã đƣợc hƣởng chế độ dân chủ rộng rãi và liều chết giữ vững chế độ ấy…, nên Việt Nam vẫn có thể kháng chiến và nắm chắc thắng lợi bằng cách mở mặt trận ở bất kỳ nơi nào có bóng địch, đánh ngay ở cả sau lƣng địch, trong ruột địch và tổ chức căn cứ địa không những ở rừng núi mà cả ở đồng bằng” [23, tr.180,184]. 18 Rừng núi là địa bàn chiến lƣợc quan trọng, địa thế hiểm trở có nhân dân các dân tộc trung thành với cách mạng, địch có nhiều sơ hở, khó phát huy ƣu thế vũ khí và phƣơng tiện chiến tranh hiện đại. Ta có thể xây dựng, phát triển lực lƣợng, duy trì một cuộc chiến tranh lâu dài, kể cả những lúc gặp khó khăn nhất. Đây là nơi có thể xây dựng hậu phƣơng vững chắc nhất của cách mạng nƣớc ta. Đồng bằng là nơi không có địa hình hiểm trở nhƣ rừng núi, nhƣng là nơi đông dân, nhiều của, xây dựng chỗ đứng chân ở đồng bằng mới có điều kiện khai thác nhiều nhân tài, vật lực cho kháng chiến. Để tiến hành chiến tranh phải vũ trang cho nhân dân, phát động phong trào dân quân. Đó “là cách hiệu nghiệm động viên toàn dân tham gia tác chiến; là cách tổ chức và rèn luyện đội quân hậu bị hết sức dồi dào để bổ sung và tiếp ứng cho quân chính quy, để dánh lâu dài” [18, tr. 314]. Trƣờng Chinh cũng nêu rõ:“ Đất ta hẹp, nhƣng không hẹp đến nỗi không thể lập đƣợc căn cứ địa.Vả lại lực lƣợng quân địch có hạn, chúng từ xa đến quyết không thể quét sạch và tiêu diệt đƣợc quân ta, cũng không đủ sức chiếm đóng khắp nƣớc ta khiến cho ta hết chỗ đứng chân ... Không có căn cứ địa nào tuyệt đối vững chắc hết! Vì vậy, không nên và không thể xây dựng nghênh ngang kềnh càng…” [18, tr. 311]. Để chọn một vùng làm căn cứ địa phải họp hội nghị cán bộ quân, chính, dân các cấp vùng đó, bàn định kế hoạch thiết lập và bảo vệ căn cứ địa. Những việc cần phải chú ý ngay từ lúc đầu là: “1. Về hành chính và dân vận, phát triển và củng cố các cơ quan chính quyền, các tổ chức quần chúng (chuẩn bị tiểu tổ bí mật); đào tạo cán bộ địa phƣơng để lãnh đạo chính quyền và phát triển các tổ chức quần chúng trong vùng. “2. Về mặt quân sự, tổ chức rộng rãi dân quân và vũ trang toàn dân, huấn luyện quân sự cho toàn bộ thanh niên nam nữ; bố trí đội quân chủ lực, tập trung vũ khí cần thiết để cản bƣớc tiến của địch và tiêu diệt chúng khi chúng vào sâu; che dấu mục tiêu đề phòng máy bay. “3. Về dân sinh, tăng gia sản xuất theo kế hoạch định sẵn; tổ chức tốt công tác hậu cần; cải thiện đời sống nhân dân. 19

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net