Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THÙY CHI ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010 Chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Ngô Đăng Tri Hà Nội - 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ THÙY CHI ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ Hà Nội - 2012 2 BẢNG CHỮ VIẾT TẮT CCGD : Cải cách giáo dục CNH-HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa BC : Bán công CNXH : Chủ nghĩa xã hội HĐND : Hội đồng nhân dân NQTW : Nghị quyết Trung ương PCGD : Phổ cập giáo dục PTDTNT : Phổ thông dân tộc nội trú PTLC : Phổ thông liên cấp THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thông UBND : Ủy ban nhân dân XHH : Xã hội hóa XMC : Xóa mù chữ 178 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000 ................... 11 1.1. Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 1996- 2000 ........................................................................... 11 1.1.1. Tình hình giáo dục phổ thông Yên Bái mười năm đầu đổi mới (1986-1996) ............................................................................................. 11 1.1.2. Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 1996-2000 ......................................................................... 23 1.2. Quá trình chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 1996 đến năm 2000 ................................................ 33 1.2.1. Phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục ..................... 33 1.2.2. Tăng cường đội ngũ giáo viên và phát triển cơ sở vật chất .......... 38 1.2.3. Công tác xã hội hóa giáo dục ........................................................ 42 Chương 2. ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 ................... 45 2.1. Chủ trương và sự chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 2001-2005............................................ 45 2.1.1. Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 2001-2005 ................................................................. 45 2.1.2. Quá trình chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 2001 đến năm 2005....................................................... 53 2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 2006-2010............................................. 66 2.2.1. Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 2006-2010 ......................................................................... 66 2.2.2. Quá trình chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 2006 đến năm 2010....................................................... 73 179 Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ CÁC KINH NGHIỆM LỊCH SỬ .... 89 3.1. Nhận xét chung ................................................................................... 89 3.1.1. Về các thành tựu và nguyên nhân ................................................. 89 3.1.2. Về các hạn chế và nguyên nhân .................................................... 95 3.2. Các kinh nghiệm chủ yếu và vấn đề đặt ra...................................... 99 3.2.1. Các kinh nghiệm chủ yếu .............................................................. 99 3.2.2. Một số vấn đề đặt ra .................................................................... 105 KẾT LUẬN .................................................................................................. 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 112 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 122 180 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng là nhân tố chìa khóa, là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong thời đại khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay, hàm lượng trí tuệ khoa học kết tinh trong sản phẩm hàng hoá ngày càng tăng; tài năng trí tuệ, năng lực và bản lĩnh trong lao động sáng tạo của con người, không phải xuất hiện một cách ngẫu nhiên, tự phát, mà phải trải qua quá trình đào luyện công phu có hệ thống. Vì vậy giáo dục được nhìn nhận không phải là yếu tố phi sản xuất mà là yếu tố bên trong cấu thành của nền sản xuất xã hội. Thực tiễn cho thấy rằng không có quốc gia nào muốn phát triển mà ít đầu tư cho giáo dục. Công cuộc chạy đua phát triển kinh tế của thế giới hiện nay là cuộc chạy đua về khoa học và công nghệ, chạy đua về phát triển giáo dục và đào tạo. Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn luôn có quan điểm và đường lối phát triển giáo dục một cách đúng đắn và sáng tạo nhằm tạo ra những thế hệ công dân mới theo sự phát triển của đất nước. Đảng khẳng định, giáo dục là một bộ phận không thể tách rời trong toàn bộ mục tiêu, đường lối cũng như nhiệm vụ trong suốt tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) đã nêu rõ “Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới”. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục khẳng định: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Có thể nói, giáo dục được xác định là chiếc chìa khóa vàng để mở đường đưa đất nước đi đến văn minh hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của nước ta hiện nay, câu hỏi đầu tiên, và đột phá chú trọng đầu tiên bao giờ cũng 3 nói tới giáo dục phổ thông, vì giáo dục phổ thông (gồm tiểu học, THCS, THPT) là nền tảng cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân và chính nó sẽ là cơ sở đem đến chất lượng cho cả hệ thống giáo dục…Đại hội Đảng lần thứ IV (1979) khẳng định: “Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất trọng yếu cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Với ý nghĩa đó, trong đường lối đổi mới giáo dục, Đảng luôn coi trọng và đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của giáo dục phổ thông. Đối với tỉnh Yên Bái, phát triển giáo dục phổ thông lại càng quan trọng vì điểm xuất phát của tỉnh thấp, trình độ dân trí chưa cao và không đồng đều. Do vậy, muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển điều có ý nghĩa quyết định là phải nâng cao mặt bằng trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ lên ngang tầm chung của đất nước và của khu vực. Mục tiêu quan trọng là phải giáo dục con người toàn diện. Nhận thức được vai trò, ý nghĩa quan trọng của giáo dục phổ thông, Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo để sự nghiệp giáo dục phổ thông của tỉnh từng bước đổi mới và phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, giáo dục phổ thông Yên Bái từ năm 1996 đến năm 2010 đã đạt được những thành tựu cơ bản, song vẫn còn những tồn tại và yếu kém cần phải khắc phục. Làm sáng tỏ những điều đó để rút ra kinh nghiệm về lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông ở Yên Bái trong thời kỳ đổi mới có ý nghĩa quan trọng, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010” làm đề tài luận văn Thạc sỹ khoa học Lịch sử- chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Đây là lĩnh vực được nhiều tổ chức, cơ quan và các nhà khoa học đầu 4 tư nghiên cứu. Đã có không ít những công trình nghiên cứu, những bài viết về giáo dục đào tạo, đặc biệt là giáo dục đào tạo thời kỳ đổi mới được công bố. Tuy nhiên, số lượng công trình nghiên cứu về giáo dục phổ thông còn rất ít. Nhìn một cách khái quát các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành các nhóm chủ yếu sau: - Nhóm thứ nhất: Một số công trình nghiên cứu chuyên khảo đã xuất bản như : “35 năm phát triển giáo dục phổ thông” của tác giả Võ Thuận Nho; “Những bài nói và viết về giáo dục” của tác giả Nguyễn Văn Huyên; “Sơ thảo về giáo dục Việt Nam (1945-1990)” của tác giả Phạm Minh Hạc; “Phát triển giáo dục – phát triển con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của tác giả Phạm Minh Hạc; “Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười…Đây là những tác phẩm thể hiện những quan điểm chung, những nhận định chung nhất về nền giáo dục Việt Nam, trong đó có đề cập đến giáo dục phổ thông với tư cách là một bậc học cần có nhiều sự quan tâm để đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội trong thời kì đất nước đổi mới. - Nhóm thứ hai: Một số bài đăng trên các tạp chí: “Một số cơ hội để đánh giá thực trạng giáo dục THPT” của TS. Hồ Thiệu Hùng đăng trên báo Tuổi trẻ ngày 10/2/2003; “Phát huy việc tự học trong trường phổ thông trung học” của GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn đăng trên báo Giáo dục và Thời đại ngày 10/2/2003; “Chất lượng giáo dục phổ thông – một vấn đề cấp bách” của GS.VS. Nguyễn Cảnh Toàn đăng trên báo Văn nghệ ngày 11/10/2003 và 18/10/2003…Những bài viết trên đưa ra những nhận định về giáo dục phổ thông và đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của giáo dục phổ thông trong thời kỳ đổi mới đất nước. Nhận định về những thành tựu và hạn chế của giáo dục và đào tạo nước ta trong những năm thực hiện đổi mới, chỉ ra nguyên nhân và đưa ra những kiến nghị, để giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng thực sự trở thành “quốc sách hàng đầu” là những vấn đề được đề cập đến trong các bài 5 viết: “Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của nước nhà” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; “Cải cách giáo dục từ khâu đột phá nào?” của GS.NGND Nguyễn Ngọc Lanh; “Để giáo dục và đào tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu” của tác giả Phạm Ngọc Minh; “Ngành giáo dục – đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và triển khai Nghị quyết Đại hội IX” của GS.TS Nguyễn Minh Hiển; “Thực hiện chủ trương của Đảng về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục” của PGS.TS. Nghiêm Đình Vì… - Nhóm thứ ba: những khóa luận tốt nghiệp, luận văn của sinh viên, học viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu về sự lãnh đạo của các Đảng bộ địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục và đào tạo. Một số luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết về lĩnh vực này: “Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo dục- đào tạo (1991- 2000)” của tác giả Lương Thị Hòe, luận văn thạc sỹ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998; “Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông trong những năm 1996- 2006” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh, luận văn thạc sỹ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009;… Về vấn đề giáo dục đào tạo Yên Bái có cuốn “Giáo dục và Đào tạo Yên Bái- 60 năm xây dựng và trưởng thành” do Sở Giáo dục và Đào tạo Yên Bái biên soạn, đã khái quát quá trình xây dựng và phát triển của giáo dục Yên Bái trong 60 năm (1945- 2005). Trên các báo chí Trung ương và địa phương cũng có những bài viết đề cập đến giáo dục Yên Bái: Báo Giáo dục và Thời đại, Báo Yên Bái, Trang thông tin các Sở Giáo dục và Đào tạo Vùng 1,... Những công trình nghiên cứu và bài viết được công bố đã giúp chúng ta hiểu phần nào về thực trạng giáo dục và đào tạo trên cả nước nói chung và ở các địa phương nói riêng. Song cho đến nay chưa có công trình lịch sử chuyên khảo nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Yên Bái đối với sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010. 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu -Mục đích nghiên cứu: + Làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010. + Từ đó nêu lên nhận xét, đánh giá khách quan các thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm phục vụ hiện tại. -Nhiệm vụ nghiên cứu: + Tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu liên quan đến đề tài. + Trình bày chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010 + Đánh giá, nhận xét khách quan thành công, hạn chế sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái thời kỳ 1996- 2010. + Rút ra một số kinh nghiệm, đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo để đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông ở Yên Bái hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là sự lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ Yên Bái từ năm 1996 đến năm 2010. -Phạm vi nghiên cứu: + Về nội dung: Những chủ trương và sự chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái. Các vấn đề về dạy nghề, giáo dục mầm non chỉ đề cập ở mức độ cần thiết. + Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Yên Bái hiện nay. Những liên quan đến các tỉnh lân cận không đề cập sâu ở luận văn này. + Về thời gian: từ năm 1996 đến năm 2010. Năm 1996 là mốc Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIV đề ra chủ trương phát triển giáo dục phổ thông gắn liền và phục vụ nhiệm vụ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Yên Bái (1996) cho đến khi học viên nhận đề tài (năm 2010). Các vấn đề trước năm 1996 và sau năm 2010 chỉ đề cập ở mức độ thích hợp. 7 5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu - Nguồn tư liệu: + Các văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị quyết của Trung ương Đảng có liên quan đến giáo dục và đào tạo thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. + Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Yên Bái về phát triển giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng thời kỳ 1996- 2010. Đây là nguồn tư liệu chính, quan trọng nhất. +Các báo cáo của các cấp chính quyền tỉnh Yên Bái về giáo dục và đào tạo, nhất là phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010. +Sách, báo viết về giáo dục Yên Bái và các luận văn, các công trình khác có liên quan đến giáo dục và đào tạo. -Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng về giáo dục và đào tạo. + Phương pháp nghiên cứu: Hai phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgíc. Các phương pháp khác, như phương pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... cũng được sử dụng để làm rõ những vấn đề cần thiết trong quá trình nghiên cứu. 6. Đóng góp của luận văn - Trình bày có hệ thống các quan điểm, chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 1996 đến năm 2010 với những tư liệu xác thực, tin cậy. - Trên cơ sở đó, nêu lên các kết quả đạt được và chưa đạt được, đưa ra nhận xét về thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm, đặt ra một số vấn đề như là những khuyến nghị nhằm tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện tại. - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái nói chung, nghiên cứu phát triển giáo dục phổ thông ở Yên Bái thời kỳ 1996- 2010 nói riêng. 8 7. Bố cục cơ bản của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có 3 chương: Chương 1: Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2000 Chương 2: Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010 Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm lịch sử 9 Chương 1 ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI LÃNH ĐẠO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2000 1.1. Chủ trƣơng phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ tỉnh Yên Bái giai đoạn 1996- 2000 1.1.1. Tình hình giáo dục phổ thông Yên Bái mười năm đầu đổi mới (1986-1996) 1.1.1.1. Yên Bái: vùng đất, con người và truyền thống hiếu học Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc. Phía đông bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía đông nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía tây nam giáp tỉnh Sơn La, phía tây bắc giáp hai tỉnh Lai Châu và Lào Cai. Là "cửa ngõ phên dậu" vùng Tây Bắc, nơi giao thoa của hai khu vực Việt Bắc- Tây Bắc, của những nền văn hoá đa sắc tộc, hình thành nên nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Thiên phú và sự sáng tạo lao động của cộng đồng các dân tộc Yên Bái đã tạo nên một vùng đất nhiều tiềm năng. Tỉnh Yên Bái có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc – Đông Nam: phía Tây có dãy Hoàng Liên Sơn – Pú Luông nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy, phía Đông có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình khá phức tạp nhưng có thể chia thành 2 vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có độ cao trung bình 600m trở lên, chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng thấp có độ cao dưới 600m, chủ yếu là địa hình đồi núi thấp, thung lũng bồn địa, chiếm 32,44 % diện tích tự nhiên. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có thể chia thành 5 tiểu vùng khí hậu. Yên Bái có nhiều loại rừng khác nhau như: rừng nhiệt đới, á nhiệt đới, và núi cao. Tài nguyên khoáng sản khá đa dạng, hiện đã điều tra 257 điểm mỏ khoáng sản, xếp vào các nhóm khoáng sản năng lượng, khoáng 10 sản vật liệu xây dựng, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản kim loại và nhóm nước khoáng. Yên Bái có lợi thế để phát triển ngành nông- lâm sản gắn với vùng nguyên liệu: trồng rừng và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo; trồng và chế biến quế, chè, cà phê; trồng và chế biến sắn, hoa quả; nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Với nguồn khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác và chế biến khoáng sản như: đá quý, cao lanh, fenspat, bột cácbonnát canxi, sắt…và sản xuất vật liệu xây dựng: xi măng, gạch, sứ kỹ thuật, sứ dân dụng, đá xẻ ốp lát, đá mỹ thuật và các loại vật liệu xây dựng khác. Là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa dạng và đẹp: hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên Bình), hồ Thác Bà, du lịch sinh thái Suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích cách mạng, đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ…Tỉnh Yên Bái có nhiều dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều kiện để kết hợp phát triển du lịch sinh thái. Thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc Yên Bái đã luôn đổi mới cách nghĩ, cách làm, tự lực, tự cường, năng động, sáng tạo trong việc cụ thể đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn địa phương, khai thác tiềm năng, thế mạnh sẵn có, huy động mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đặc biệt là từ khi tái lập tỉnh (1991), mặc dù phải đối mặt nhiều khó khăn, thách thức, song Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã nêu cao tinh thần đoàn kết, phát huy truyền thống anh hùng, phấn đấu vươn lên đạt được những thành tựu quan trọng và khá toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội. Cùng cả nước vững bước trên con đường đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập và phát triển. Kinh tế Yên Bái đạt tốc độ tăng trưởng khá; văn hoá- xã hội có nhiều tiến bộ; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an 11 toàn xã hội; phát triển kinh tế hàng hoá, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bộ mặt từ thành thị đến nông thôn, cả vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có nhiều đổi thay. Từ một tỉnh nghèo nàn, lạc hậu với kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, du canh du cư, Yên Bái đã chuyển sang nền kinh tế hàng hoá phát triển đa dạng, có tốc độ tăng trưởng cao và cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ một thị xã Yên Bái nhỏ bé, hoang tàn, đổ nát trong chiến tranh. Chỉ có mấy mươi năm, được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, đặc biệt là sự nỗ lực phi thường của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Yên Bái đã có một trung tâm tỉnh phát triển và trở thành thành phố đầu tiên ở vùng Tây Bắc- một thành phố phát triển theo hướng xanh, sạch, đẹp, văn minh; "một thành phố trong rừng và rừng trong thành phố". Cùng với đó là mạng lưới đô thị phát triển đồng bộ ở các địa phương trong tỉnh, với thị xã Nghĩa Lộ và nhiều thị trấn, thị tứ ngày càng khang trang, hiện đại, làm đổi thay hẳn bộ mặt của một miền rừng núi. Dân cư và các thành phần dân tộc Năm 2010, tổng dân số toàn tỉnh là 752.922 người. Mật độ dân số trung bình là 109 người/km2, tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện lỵ. Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc sinh sống, trong đó có 7 dân tộc có dân số trên 10.000 người. 2 dân tộc có từ 2.000 - 5.000 người, 3 dân tộc có từ 500 -2.000 người. Trong đó người Kinh chiếm 49,6%, người Tày chiếm 18,58%, người Dao chiếm 10,31%, người HMông chiếm 8,9% người Thái chiếm 6,7%, người Cao Lan chiếm 1%, còn lại là các dân tộc khác. Cộng đồng và các dân tộc trong tỉnh với những truyền thống và bản sắc riêng đã hình thành nên một nền văn hóa rất đa dạng và phong phú, có nhiều nét độc đáo, sâu sắc nhân văn và những truyền thống tập quán trong lao động sản xuất có nhiều bản sắc dân tộc. 12 Truyền thống yêu nước và cách mạng Cùng dòng chảy của lịch sử dân tộc Việt Nam, nhân dân các dân tộc Yên Bái đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, anh dũng, kiên cường trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, trong các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Từ thời Hùng Vương dựng nước, Yên Bái thuộc bộ Tân Hưng, một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Trải qua các thời kỳ bắc thuộc, Yên Bái thuộc phủ Quy Hoá, tỉnh Hưng Hoá. Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, ngày 11- 4- 1900, Toàn quyền Đông Dương đã ra nghị định chính thức thành lập tỉnh Yên Bái. Sau khi thành lập tỉnh, thực dân Pháp đã sử dụng bộ máy chính quyền phong kiến để thống trị nhân dân các dân tộc trong tỉnh, triệt để áp dụng chính sách "ngu dân", "chia để trị", kích động chia rẽ đồng bào các dân tộc, kìm hãm nhân dân trong vòng tăm tối, lạc hậu, người dân Yên Bái bị thực dân nô dịch, sống kiếp đời lầm than. Quyết không chịu kiếp sống nô lệ, nhân dân các dân tộc Yên Bái cùng nhân dân cả nước đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, các cuộc khởi nghĩa của đồng bào Kinh, Tày, Dao... ở Văn Chấn, Trấn Yên, Lục Yên và ở nhiều nơi khác đã liên tục diễn ra chống bắt phu, bắt lính, cướp ruộng đất, làm cho thực dân Pháp rất lúng túng, lo sợ và bất ổn định; điển hình là cuộc khởi nghĩa của Tổ chức Việt Nam quốc dân Đảng do nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa tuy không thành công, nhưng tinh thần yêu nước, bất khuất, kiên cường, với tinh thần "không thành công cũng thành nhân" của các nghĩa sĩ đã thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc trong tỉnh và cổ vũ, bồi đắp thêm lòng yêu nước của nhân dân cả nước, đồng thời góp một tiếng vang lớn trên thế giới. Truyền thống đó được nhân lên gấp bội vào mùa xuân 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đã mở ra một trang mới cho lịch sử cách mạng Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước của nhân dân các dân tộc Yên Bái. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đầu những năm 40 của thế kỷ 20, một số cơ sở cách mạng đã được xây dựng ở huyện Trấn Yên và thị xã Yên Bái; 13 nhiều tổ chức cứu quốc được thành lập. Ngày 7/5/1945, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên đã ra đời ở thị xã Yên Bái. Ngày 30/6/1945, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã quyết định thành lập Ban cán sự liên tỉnh Yên Bái - Phú Thọ do đồng chí Ngô Minh Loan làm Bí thư. Sự kiện thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh đã mở ra bước ngoặt mới cho phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương. Ngày 6/7/1945, lực lượng vũ trang Yên Bái ra đời làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Ngay sau khi được thành lập, Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống anh dũng, sáng tạo, tập hợp đoàn kết nhân dân các dân tộc, lãnh đạo nhân dân kết hợp với lực lượng vũ trang xây dựng cơ sở cách mạng, tiến hành khởi nghĩa giải phóng các châu Văn Chấn, Lục Yên, Trấn Yên, Yên Bình và thị xã Yên Bái. Yên Bái vinh dự, tự hào là một trong những địa phương giành chính quyền về tay nhân dân sớm nhất trong cả nước. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Yên Bái đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách của nạn "giặc đói", "giặc dốt" và giặc ngoại xâm. Song, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng bộ, chính quyền và quân dân các dân tộc Yên Bái đã góp phần bảo vệ vững chắc chính quyền non trẻ, củng cố lực lượng vũ trang, tránh được sự xô xát với quân Tưởng, cô lập bọn phản động Việt Quốc, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi, chuẩn bị mọi mặt để bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ năm 1947, thực dân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng, chúng đã thôn tính hai phần ba diện tích của tỉnh. Tỉnh Yên Bái đã thực hiện đường lối kháng chiến "toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh" kết hợp vừa kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng hậu phương. Quân và dân Yên Bái đã đóng góp sức người, sức của và phối hợp với bộ đội chủ lực mở nhiều chiến dịch như Sông Thao (1949), Lê Hồng Phong (1950), Lý Thường Kiệt (1951). Đặc biệt, trong chiến dịch Tây Bắc (1952) đã đập tan hoàn toàn phân khu Nghĩa Lộ, mở thông cánh cửa sang phân khu sông Đà, giải phóng hoàn toàn tỉnh Yên Bái. Ngay sau khi được giải phóng, toàn tỉnh lại dồn sức vào thực hiện nhiệm vụ Chính phủ giao là mở con đường huyết mạch nối liền căn cứ địa Việt Bắc với chiến trường Tây Bắc và huy động sức người, sức của, góp 14 phần to lớn cùng cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vĩ đại lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu. Hòa bình lập lại, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, nhân dân các dân tộc Yên Bái bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế- xã hội, đã tạo ra những biến đổi quan trọng trong đời sống xã hội ở địa phương. Tiếp nối truyền thống anh hùng, Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc Yên Bái đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cùng cả nước chống Mỹ, cứu nước. Với tinh thần "tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", quân và dân Yên Bái vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa sẵn sàng chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam. Hàng vạn thanh niên các dân tộc đã xung phong tòng quân, lên đường đánh giặc; hàng nghìn người con thân yêu của quê hương Yên Bái đã hy sinh anh dũng vì độc lập, tự do của Tổ quốc, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại của dân tộc vào mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử- Giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, cả nước cùng đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, quân và dân Yên Bái- Hoàng Liên Sơn trực tiếp chiến đấu dũng cảm, lần lượt làm thất bại các âm mưu phá hoại, xâm lược, gây mất ổn định của các thế lực phản động bảo vệ vững chắc biên giới quốc gia. Truyền thống hiếu học Trải qua những thăng trầm của các thời kỳ, Yên Bái đã không ngừng bồi đắp nên truyền thống trong đấu tranh cũng như trong lao động sáng tạo xây dựng quê hương. Yếu tố chính làm nên thành công đó là con người Yên Bái được hun đúc từ bao đời trên một vùng đất thiêng, non sông tươi tốt, được đánh giá là “hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc”. Yếu tố con người, yếu tố có tính quyết định, một phần to lớn là “do giáo dục mà nên”. Vì vậy, giáo dục đã được hình thành, phát triển cùng với quá trình đấu tranh xây dựng quê hương bằng việc dạy bảo của thế hệ trước cho thế hệ sau học tập, rèn luyện trưởng thành. Việc dạy, việc học đã thành truyền thống lâu đời, nét đẹp văn hóa của các dân tộc Yên Bái. 15 Sự nghiệp giáo dục và đào tạo gắn liền với truyền thống hiếu học của nhân dân các dân tộc trong quá trình hình thành và phát triển miền đất này hơn một thế kỷ đấu tranh và xây dựng tỉnh Yên Bái. Trong mỗi thời kỳ đều đã sản sinh ra những con người ưu tú làm rạng rỡ cho quê hương đất nước. Trước hết phải kể đến những người tài mưu lược, trở thành thủ lĩnh, nghĩa binh khởi nghĩa chống lại ách áp bức, nô dịch, kháng chiến chống giặc ngoại xâm giải phóng quê hương Yên Bái dưới các triều đại phong kiến, đế quốc phương Bắc và thực dân Pháp đô hộ. Cách mạng tháng Tám thành công, nhà nước dân chủ xóa bỏ nền giáo dục ngu dân của thực dân Pháp, xây dựng nền giáo dục cách mạng rộng khắp và tạo điều kiện khuyến khích tài năng phát triển. Chỉ tính trong thời kỳ đổi mới, số người ở Yên Bái có bằng Cao học, Thạc sĩ trên 200 người, người đã có học vị Tiến sĩ hơn 15 người; đặc biệt còn có người giành được thủ khoa, ghi danh ở Văn Miếu. Nhiều học sinh Yên Bái đã trở thành những học giả tên tuổi, những doanh nhân thành đạt. Nhiều nhà giáo tận tụy tâm huyết với sự nghiệp “Trồng người”, đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận công lao cống hiến, phong tặng những danh hiệu cao quý: Anh hùng Lao động, Nhà giáo ưu tú, Huân chương lao động. Noi gương cha anh, tuổi trẻ Yên Bái vượt khó vươn lên học giỏi ngày càng nhiều ở các cấp học, vùng miền; chỉ tính riêng cấp THPT , đã có hàng trăm học sinh đạt giải quốc gia, số học sinh đỗ vào trường đại học hàng năm tăng lên… Những thuận lợi về tự nhiên, kinh tế- xã hội và truyền thống quý báu đó là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Yên Bái lãnh đạo phát triển giáo dục, hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội học tập góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1.1.1.2. Tình hình giáo dục phổ thông Yên Bái trước năm 1996 Trước Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, trong bối cảnh tình hình kinh tế- xã hội cả nước khủng hoảng, giáo dục và đào tạo Yên Bái nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng gặp nhiều khó khăn, giảm sút 16 nghiêm trọng cả về quy mô và chất lượng; tỷ lệ bỏ học tăng; cơ sở vật chất trường lớp bị xuống cấp và thiếu thốn…Tháng 12/1986, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã quyết định đường lối đổi mới toàn diện đất nước; tiếp đó tháng 6/1991, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng xác định “Giáo dục- Đào tạo” cùng với “Khoa học- Công nghệ” là “Quốc sách hàng đầu” đã mở ra hướng đi mới cho ngành giáo dục Yên Bái trong những năm tiếp theo. Thực hiện Nghị quyết đổi mới giáo dục của Đảng, trong bối cảnh kinh tế từng bước thoát khỏi khủng hoảng, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng bộ, giáo dục phổ thông Yên Bái trong 10 năm đầu của sự nghiệp đổi mới bước đầu có những chuyển biến. Cụ thể: *Giáo dục tiểu học Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, hệ thống mạng lưới trường lớp chưa được quy hoạch, còn khó khăn trong việc thu hút trẻ em đi học. Ví dụ như năm học 1991- 1992, năm học đầu tiên tái thiết tỉnh Yên Bái, toàn tỉnh mới chỉ có 229 trường cấp 1, trường PTLC 1+2; 2824 lớp; 75.767 học sinh cấp 1 [59, tr.166]. Hầu hết các trường vùng cao mới chỉ có đến lớp 2, lớp 3; đặc biệt, các xã của hai huyện vùng cao Trạm Tấu và Mù Cang Chải mới có lớp 2. Tỷ lệ huy động trẻ em đi học mẫu giáo, vỡ lòng được 35- 37%, số trẻ em 6 tuổi đi học được từ 75- 79%. Tỷ lệ nhập học thô đạt trên 85%, như vậy số trẻ ra học đúng độ tuổi chỉ đạt 68%. Bình quân bỏ học cấp 1 là 12%, riêng lớp 1 bỏ học 13,6%. Tính chung, hiệu quả cấp 1 chỉ đạt 75,7%, hao phí lưu ban, bỏ học mất hơn 24% [59, tr.166]. Hiệu quả và chất lượng giáo dục rất thấp. Trước những khó khăn đó, ngày 12/4/1993 Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 07- NQ/TU về Chương trình hành động; UBND tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện NQTW 4 (khóa VII) của Đảng, đẩy mạnh đổi mới giáo dục. Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, Sở giáo dục thực hiện đa dạng hóa loại hình trường lớp; đồng thời chỉ đạo chương trình “165 tuần” “120 tuần” “100 tuần” cho phù hợp với tình hình thực tế, khả năng đáp ứng điều kiện học tập của 17

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net