Cảm hứng tự sự trong thơ hữu thỉnh

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Cảm hứng tự sự trong thơ hữu thỉnh

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2 NGUYỄN THỊ THANH TÂM CẢM HỨNG THẾ SỰ TRONG THƠ HỮU THỈNH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM. HÀ NỘI, năm 2015 LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn, tôi đã nhận được sự động viên giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo, của gia đình và bạn bè. Tôi xin được ghi nhớ và gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả mọi người. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc nhất đến PGS.TS Lí Hoài Thu, cô đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn của mình. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Ngữ văn, phòng Tư liệu Khoa Văn học, Thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Thư viện Trường ĐHSP Hà Nội 2, Thư viện Trường ĐHSP Hà Nội 1, đã quan tâm tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2015 Tác giả Nguyễn Thị Thanh Tâm LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong luận văn tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, có tham khảo ý kiến của những người đi trước, dưới sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lí Hoài Thu- người hướng dẫn khoa học của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của tôi trong luận văn này. Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2015 Người viết Nguyễn Thị Thanh Tâm MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1 2. Lịch sử vấn đề. ........................................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 6 4. Đối tượng nghiên cứu. ............................................................................... 6 5. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 6 6. Phương pháp nghiên cứu. .......................................................................... 7 7. Đóng góp của luận văn. ............................................................................. 7 8. Cấu trúc luận văn. ...................................................................................... 7 PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 8 Chương 1: Vấn đề cảm hứng, cảm hứng thế sự trong thơ và hành trình thơ Hữu Thỉnh. ........................................................................................................ 8 1.1. Vấn đề cảm hứng và cảm hứng thế sự trong thơ ................................. 8 1.2. Cảm hứng thế sự trong thơ sau 1975 ................................................. 11 1.3. Hành trình thơ Hữu Thỉnh. ............................................................... 14 Chương 2: Những nguồn cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh................... 26 2.1. Cảm hứng trước những đổi thay của thời cuộc, quê hương, đất nước. ................................................................................................................... 26 2.2. Cảm hứng về đời sống nhân tình ....................................................... 36 2.3. Cảm hứng về thời gian. ...................................................................... 49 Chương 3: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh. ...... 61 3.1. Hệ thống hình ảnh, biểu tượng. ......................................................... 61 3.2. Ngôn từ thơ. ....................................... Error! Bookmark not defined. 3.3. Giọng điệu.......................................................................................... 83 PHẦN KẾT LUẬN ......................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 97 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. 1.1. Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ông cùng thời với Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Hoàng Nhuận Cầm, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh…Những nhà thơ đã làm nên cả một dàn hợp xướng đa dạng và phong phú. Sau khi chiến tranh kết thúc, họ đã tìm về với cảm hứng thế sự và lại tiếp tục đóng góp cho thơ ca đất nước thời kỳ đổi mới những vần thơ giàu nhiệt huyết . Cùng với thời gian, thế hệ các nhà thơ này trở nên già dặn trong cách nghĩ suy và khi nhận ra những biến đổi của đời sống xã hội, họ đã đem vào trong sáng tác của mình những suy tư, và nhiều khi cả nỗi cô đơn, hoài nghi,âu lo về cuộc đời, về con người. Là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ chống Mỹ và thơ ca đương đại, sáng tác của Hữu Thỉnh khá liền mạch, tiêu biểu cho quá trình vận động của thơ ca cách mạng Việt Nam trong những thập niên gần đây và đã gây được tiếng vang lớn trên thi đàn. Thơ Hữu Thỉnh vừa mang những đặc điểm chung của thơ ca kháng chiến chống Mĩ, vừa có những nét độc đáo riêng về cảm hứng và thi pháp. Ông đã tạo dựng được một tiếng thơ mới mẻ bằng một loạt những tác phẩm thơ trữ tình và trường ca, có phong cách, tiếng nói riêng, không bị khuất lẫn trong dàn đồng ca chung của thế hệ. Nhiều bài thơ của Hữu Thỉnh đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường và được các nhạc sỹ phổ nhạc. Thơ Hữu Thỉnh đã ghi lại cái hào khí của thời đại anh hùng, nhiệt tình khẳng định lý tưởng, khí thế sục sôi, hào sảng qua giọng thơ khỏe khoắn, vui tươi mà sâu sắc.. Là một trong những cây bút chủ lực của thơ ca chống Mỹ và thơ ca đương đại, thơ Hữu Thỉnh có nhiều trăn trở, suy tư về đời sống và số phận con người. Ông buồn đau khi chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời. Nhà thơ nói cái xót xa cũng là để thức tỉnh, để phát đi một tín hiệu cấp 2 thiết: “con người đừng tự biến mình thành một thế giới vô cảm, lạnh lùng, trái tim đừng chai lì trước nỗi đau đồng loại”. Hữu Thỉnh thể hiện nó bằng một tiếng thơ vừa đậm chất dân tộc, vừa hiện đại. 1.2. Thơ Hữu Thỉnh được coi như bản trường ca lịch sử ghi lại những năm tháng đấu tranh ác liệt của dân tộc. Khi chiến tranh và bom đạn đã đi qua, nhà thơ đã giã từ màu xanh áo lính trở về với cuộc sống thường ngày. Ngòi bút của ông lại hướng vào cuộc hành trình trở về với biển. Cuộc hành trình đó vang lên với âm hưởng như một khúc “trường ca biển” hào hùng, dữ dội của người lính. Họ phải chịu đựng hy sinh, gian khổ trong cảm giác thiệt thòi như “những dòng sông hóa thạch” cầm cụi và lặng lẽ. Hòa mình vào công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh, ngòi bút của Hữu Thỉnh lại hướng vào cuộc hành trình đi tìm những giá trị nhân bản mà cuộc sống xô bồ trước mắt đã làm mờ nhạt đi. Hai tập thơ Thư mùa đông (1994) và Thương lượng với thời gian (2005) phản ánh chân thực những suy tư, trăn trở của ông về cuộc đời và con người hiện đại. Việc đi sâu tìm hiểu cảm hứng thế sự trong hai tập thơ trên sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về quan điểm sáng tác, đặc điểm phong cách và cá tính sáng tạo của nhà thơ Hữu Thỉnh.Vì những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh (qua Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian) cho luận văn thạc sĩ của mình. 2. Lịch sử vấn đề. Hữu Thỉnh là nhà thơ đương đại nổi tiếng với sự nghiệp thi ca không nhỏ. Những sáng tác của ông đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của giới phê bình văn học. Nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về thơ ông, đặc biệt là những nghiên cứu liên quan tới Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian đã đề cập đến nhiều khía cạnh nổi bật của thơ Hữu Thỉnh. Bài Thư mùa đông của Hữu Thỉnh của tác giả Trần Mạnh Hảo in trên báo Văn nghệ Quân đội số 4/1996 đã khẳng định những đặc sắc của thơ Hữu 3 Thỉnh qua tập thơ Thư mùa đông như kiệm lời, hàm súc nhưng thể hiện sâu sắc xúc cảm trong lòng người đọc. Điều đáng chú ý là bài viết đã nhận ra được chất đồng quê, sự “ hồn nhiên” và cả nỗi cô đơn, đau buồn của thơ Hữu Thỉnh. Đến tập thơ Thượng lượng với thời gian, thơ ông có một bước đột phá mới bởi nó đặc biệt quan tâm tới vấn đề đời tư, thế sự, những trăn trở, suy tư và đầy trải nghiệm của một hồn thơ nặng lòng với đời. Trong bài viết Đọc “Đường tới thành phố” của Vũ Quần Phương in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội số 43 năm 1997 đã phát hiện “ Hữu Thỉnh không xây dựng những tính cách hoàn chỉnh, anh chỉ dừng lại đi sâu vào một vài tâm trạng, một vài mẫu người. Phần xúc động nhất và tạo nên tầm khái quát của trường ca chính là những mẫu người đó…”. Thiều Mai cũng có những nhận xét khá tinh tế về nhiều phương diện trong bài viết Đọc “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh: “Cảm xúc dạt dào, phong phú và mạnh mẽ là chỗ mạnh của Hữu Thỉnh… Trong lòng cuộc chiến đấu chống Mỹ vĩ đại của nhân dân, Hữu Thỉnh thường nghĩ về những vấn đề lớn lao của đất nước, của thời đi đại. Anh khao khát thơ mình phản ánh và lí giải được những điều đó… Thành công chủ yếu nhất của Hữu Thỉnh cũng chính là thể hiện vừa sâu, vừa tỉnh, vừa khái quát, vừa tỉ mỉ, chí lí những tình cảm, những suy ngẫm của người chiến sỹ trong cuộc chiến đấu chống Mỹ. Cái vững của ngòi bút Hữu Thỉnh là miêu tả trực diện những tổn thất mà tác phẩm vẫn không chìm xuống trong không khí bi đát, trái lại vẫn thấy được xu thế tiến lên của cuộc chiến đấu…”. Trong cuốn Văn chương cảm và luận in 1998 của Nguyễn Trọng Tạo có bài Hữu Thỉnh- thành phố hồn quê cũng đã đánh giá cao yếu tố truyền thống, yếu tố thôn quê dân dã trong những sáng tác của Hữu Thỉnh. Ông cho rằng chính những yếu tố dân gian và truyền thống của dân tộc đã làm nên phong cách và khẳng định vị thế của thơ Hữu Thỉnh trên thi đàn đương đại. 4 Năm 1999, trên tạp chí Văn học số 12, nhà nghiên cứu phê bình Lý Hoài Thu có bài Thơ Hữu Thỉnh -một hướng tìm tòi và sáng tạo từ dân tộc đến hiện đại. Bài viết đã đưa ra những minh chứng cho ý kiến “luôn biết đào sâu, khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, dân tộc”,“cách tân”,“sáng tạo cái mới” của Hữu Thỉnh. Điều đó, tạo nên một phong cách thơ kết hợp nhuần nhị truyền thống và hiện đại, có sức cuốn hút. Khởi đầu từ cái nôi nghệ thuật của Trường Sơn khói lửa, nhà thơ đã viết về cảm hứng về Tổ quốc, về nhân dân anh hùng, về khát vọng độc lập. Dù viết về đề tài Tổ quốc hay những số phận con người, thơ Hữu Thỉnh vẫn thấm đẫm sắc vị dân gian: “ Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se/ Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về… (Sang thu). Về mảng thơ tình, Hữu Thỉnh viết không nhiều, nhưng những bài thơ của ông đều cho người đọc thấy dư vị đắng, xót xa của những cảm xúc khi yêu. Điều đặc biệt làm nên sức hấp dẫn của thơ Hữu Thỉnh là sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và yếu tố hiện đại, thể hiện ý thức luôn biết chủ động “khai thác cái hay, cái đẹp của dân gian, của dân tộc”, và “biết dồn tâm lực, tài năng cho việc tìm kiếm, sáng tạo cái mới”. Nhà phê bình Vũ Nho trong Vài cảm nhận về Thương lượng với thời gian của Hữu Thỉnh đã chỉ ra một Hữu Thỉnh thể hiện được bản lĩnh của một nhà thơ có tầm vóc, được nhiều bạn đọc yêu thích, ngưỡng mộ, những vần thơ của ông đã làm say đắm biết bao thế hệ bạn đọc bởi những cảm nhận rất tinh tế và tài hoa. Trong ông không còn cái bồng bột mạnh mẽ, tinh tế của buổi đầu biết yêu, nhưng tình yêu ấy lại được cảm nhận theo những mùi vị riêng. Bài viết Thơ Hữu Thỉnh của tác giả Vũ Nho in trong Đi giữa miền thơ năm 2001 cũng đã nhận xét, đánh giá bao quát về thơ Hữu Thỉnh. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp có bài viết Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ in trên tạp chí Văn học số 9/2003 đã đi sâu vào những quan 5 niệm và ý thức đổi mới thơ ca của Hữu Thỉnh. Những vần thơ của ông thật gần gũi, bình dị và chân thật, gần với đời sống thường nhật, chú trọng phản ánh đời sống với những suy tư, trăn trở… Chính điều đó làm nên sức lôi cuốn kì diệu của thơ Hữu Thỉnh. Năm 2005, tác giả Lưu Khánh Thơ có bài viết Hữu Thỉnh một phong cách thơ sáng tạo đăng trên tạp chí văn học, sau này được tập hợp vào cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại đã khẳng định phẩm chất thơ Hữu Thỉnh là “đằm thắm, đôn hậu, nghiêng về phía rợp mát” và “chìm lắng yêu thương”. Đồng thời tác giả nhấn mạnh khả năng tiếp thu truyền thống dân tộc trong cách ví, cách nói, đặc biệt là cách tư duy, liên tưởng độc đáo của nhà thơ. Năm 2011, nhà phê bình Vũ Nho có bài Sức bền của một ngòi bút, in trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam đã cho rằng: Thơ Hữu Thỉnh đẹp một vẻ đẹp đa dạng. Ban đầu là sự hồn nhiên, tươi tắn, tinh tế của một người lính trẻ. Sau là những chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở của người lính từng trải. Rồi từ một niềm tin tuyệt đối đến chỗ có lúc phân vân, hoang mang nhưng vẫn kiên trì “…tin, sau cay đắng vẫn tin” (Thưa thầy). Bên cạnh vẻ đẹp của những người lính trong chiến tranh là vẻ đẹp của quê hương, đất nước, vẻ đẹp bình dị của làng quê với những cỏ hội hè, cau ấp bẹ, cây rơm gầy, cuốc kêu ngoài bến xa, bầu trời trên giàn mướp… Năm 2014, nhà nghiên cứu phê bình văn học Lí Hoài Thu lại có bài “Cây như là sinh mệnh thứ hai của thơ Hữu Thỉnh” đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 12 đã khẳng định: “Trong thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh, “hình cây bóng lá” là một kiểu nhân vật trữ tình chứa đựng nhiều cung bậc tình cảm, những vui buồn riêng tư và nỗi niềm nhân thế”. “Cây và hệ thống các thủ pháp miêu tả và biểu hiện, so sánh, ví von, nhân hóa và lạ hóa…cũng không là ngoại lệ. Cây trong thơ Hữu Thỉnh là dấu ấn thi pháp, là gương mặt 6 và số phận con người, là kí ức dân tộc và tín hiệu văn hóa…Một cách khái quát: Cây là sinh mệnh thứ hai có sức sống và độ ám ảnh, là yếu tố nổi bật lập nên một phong cách thơ độc đáo và dồi dào tiềm lực sáng tạo”. Ngoài những bài viết tiêu biểu trên, thơ Hữu Thỉnh còn trở thành đề tài nghiên cứu của nhiều chuyên luận, luận văn, luận án, khóa luận…Chuyên luận Thi pháp thơ Hữu Thỉnh của tác giả Nguyễn Nguyên Tản do Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội xuất bản năm 2005 đã khảo cứu khá toàn diện những sáng tác của Hữu Thỉnh nhìn từ góc độ thi pháp. Những chặng đường thơ Hữu Thỉnh ( Nguyễn Minh Phương); Thế giới nghệ thuật thơ Hữu Thỉnh qua hai tập thơ Thư mùa đông và Thương lượng với thời gian của Nguyễn Thị Ngọc Linh… Tiếp nối những công trình đã có, luận văn đi vào nghiên cứu, tìm hiểu Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh để có cái nhìn toàn diện, khái quát hơn về tư duy nghệ thuật, cảm hứng sáng tạo và phong cách thơ Hữu Thỉnh. 3. Mục đích nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh nhằm nhận diện được chân dung thơ Hữu Thỉnh, từ đó khái quát được những vấn đề về tài năng, cá tính nghệ thuật của nhà thơ. 4. Đối tượng nghiên cứu. Trong luận văn, chúng tôi đi sâu nghiên cứu những biểu hiện và đặc điểm của cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh. 5. Phạm vi nghiên cứu. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu, khảo sát hai tập thơ Thư mùa đông (1994) và Thương lượng với thời gian (2005) của Hữu Thỉnh. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo thêm một số bài thơ và hai trường ca Biển và Đường tới thành phố. 7 6. Phương pháp nghiên cứu. Đế thực hiện đề tài ,chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau đây: - Phương pháp loại hình. - Phương pháp cấu trúc- hệ thống - Phương pháp so sánh - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp tiểu sử. 7. Đóng góp của luận văn. Thông qua việc khám phá Cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh, luận văn đưa đến một cái nhìn toàn diện, cái nhìn vào bên trong, từ đó khắc họa nên chân dung nhà thơ Hữu Thỉnh. 8. Cấu trúc luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chƣơng I: Vấn đề cảm hứng,cảm hứng thế sự trong thơ và hành trình thơ Hữu Thỉnh. Chƣơng II: Những nguồn cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh. Chƣơng III: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng thế sự trong thơ Hữu Thỉnh 8 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1: Vấn đề cảm hứng, cảm hứng thế sự trong thơ và hành trình thơ Hữu Thỉnh. 1.1. Vấn đề cảm hứng và cảm hứng thế sự trong thơ Cảm hứng là một thuật ngữ từ lâu đã được các triết gia cổ Hi Lạp và sau này là Hêghen và Bêlinxki sử dụng để chỉ trạng thái hưng phấn cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ miêu tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại. Bêlinxki coi: “Cảm hứng là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực”. Cảm hứng được bắt nguồn từ cuộc sống thực tại. “Cuộc sống sẽ nuôi dưỡng và bồi đắp cảm xúc người nghệ sỹ luôn tươi mát càng thêm phong phú”. “Đó là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật”. Cảm hứng biểu thị sự tác động qua lại giữa tình cảm người nghệ sĩ và thế giới khách quan. Không thể có một cảm hứng chung chung, trừu tượng, mà cảm hứng phải cụ thể. Nghĩa là cảm hứng phải xuất phát từ một đối tượng cụ thể bên ngoài tinh thần người nghệ sĩ, nhưng nếu thiếu đi thế giới tinh thần nhạy cảm của người nghệ sĩ thì chưa thể có cảm hứng, nghĩa là cảm hứng phải gắn liền với tư tưởng. Không có cảm hứng sẽ không có tác phẩm nghệ thuật. Cảm hứng xuất hiện khi hội tụ đủ hai yếu tố khách quan và chủ quan. Cảm hứng nghệ thuật là trạng thái tâm lí, tình cảm bao trùm lên toàn bộ quá trình sáng tác của nhà văn nói riêng và nghệ sĩ nói chung. Đó là sự kết tinh, tập trung cao độ của trí tuệ, cảm xúc dồi dào và trạng thái hưng phấn để tạo thành sự kích thích, là tiền đề của tâm lý. E.G.Ruđneva trong Dẫn luận nghiên cứu văn học quan niệm rằng: “Sự lí giải, đánh giá sâu sắc và chân thực- lịch sử đối với các tính cách được miêu 9 tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và tác phẩm của nhà văn” [110,141] Bêlinxki lại quan niệm về cảm hứng một cách cụ thể hơn: “Trong những tác phẩm thơ đích thực, tư tưởng không phải là một khái niệm trừu tượng, được diễn tả một cách giáo điều, mà nó tạo thành linh hồn tỏa vào trong tác phẩm, giống như ánh sáng chiếu vào pha lê. Tư tưởng trong sáng tác thi ca, đó chính là cảm hứng. Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt thành nồng cháy gợi lên bởi một tư tưởng nào đó”. Bên cạnh đó, Bêlinxki còn đề cao vai trò của việc nghiên cứu cảm hứng chủ đạo của nhà văn trong tác phẩm để tìm hiểu đặc điểm sáng tác của họ. Ở Việt Nam, vai trò của cảm hứng nghệ thuật trong sáng tạo thơ văn nói chung cũng đã được chú ý từ rất lâu. Trong Từ điển thuật ngữ văn học, các tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng: “Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến những người tiếp xúc tác phẩm”[43,39]. Cảm hứng thống nhất với đề tài, tư tưởng tác phẩm sẽ đem đến cho tác phẩm “một không khí cảm xúc tinh thần nhất định, thống nhất tất cả các cấp độ và yếu tố của tác phẩm”, là “cái mức căng thẳng cảm xúc mà nhờ đó nghệ sĩ khẳng định các nguyên tắc thế giới quan của mình trong tác phẩm”[43,39] Khi bàn luận về làm thơ, Lê Quý Đôn xem khái niệm cảm hứng như một trạng thái đong đầy của cảm xúc: “Trong lòng có cảm xúc thực sự, rung cảm nên lời”[39,93]. Còn Nguyễn Quýnh đã đề cao vai trò của cảm hứng trong thơ: “Người như sông biển, chữ như nước, hứng thì như gió, gió thổi từ sông biển cho nên nước lay động làm thành gợn, thành sóng, thành ba đào. Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dạy, không thể nín được mà sinh ra ở trong lòng, ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết nên ở bút nghiên, giấy mực. Gió 10 không bám nổi vào chỗ nào nhất định, hứng cũng biến động, không ở yên, mỗi cái tuy ở phương Đông, Tây, Nam, Bắc mà buột ra rất nhanh. Người làm thơ không thể không có gió vậy”[39,103] Theo cách hiểu của Phùng Quý Nhâm thì cảm hứng là: “nhiệt hứng, niềm say mê, là sự trào dâng của tư tưởng- tình cảm cao độ của người nghệ sĩ khi họ chiếm lĩnh bản chất của cuộc sống, của con người, nó được thể hiện và biểu hiện một cách nghệ thuật trong tác phẩm”[105,81] Trong Lí luận văn học- vấn đề và suy nghĩ, Huỳnh Như Phương và Nguyễn Văn Hạnh cũng đã nhấn mạnh vai trò quyết định của cảm hứng chủ đạo đối với sự thành công của tác phẩm: “Bộc lộ khuynh hướng tư tưởng của tác phẩm, cảm hứng chủ đạo thấm nhuần vào toàn bộ cấu trúc của tác phẩm, vào thế giới hình tượng bao gồm không gian, thời gian, tính cách nhân vật, vào xung đột và cốt truyện, vào ngôn từ và giọng điệu của một bài thơ, một truyện ngắn, một thiên tùy bút hay một cuốn tiểu thuyết”[51,210] Vũ Tuấn Anh từng nhìn nhận: “Nhìn chung, cái tôi hiện thực -thế sự biểu hiện thái độ tích cực- xã hội của nhà thơ: sự phẫn nộ trước những cái phi lí, nỗi lo âu về sự xuống cấp của nhân cách và những giá trị tinh thần. Đọng lại trong thơ là nỗi buồn, nỗi đau thế sự”[2,132] Trong công trình Cái tôi trữ tình trong thơ, Lê Lưu Oanh đã chỉ ra một số biểu hiện cụ thể, đặc trưng nhất của khía cạnh cái tôi thế sự- đời tư. Thứ nhất: “Tôn trọng sự thật là mô-típ phổ biến”[108]. Thứ hai: “Trách nhiệm công dân, đạo đức nghệ sĩ được đặt ra âm thầm nhưng lại khá quyết liệt”[108,80]. Thứ ba: “Xuất hiện giọng nói ngược, những cái nhìn giả cổ tích với một kiểu nhận thức lại” trước những “sự phức tạp của đời sống với sự đảo lộn của các giá trị, những quan hệ chuẩn mực cũ ”[108,81]. Thứ 4: “Cảm nhận về trạng thái xã hội hiện tại với những khiếm khuyết, băng hoại về môi 11 trường và nhân cách, chứa đầy những thông tin nhức nhối về số phận của con người”[108,83] 1.2. Cảm hứng thế sự trong thơ sau 1975 Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện tâm trạng, những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Chính những cảm xúc đó đã tạo niềm cảm hứng cho các nhà thơ sáng tác nên những vần thơ đủ sức lay động lòng người. Cảm hứng như một sức mạnh vô hình làm biến đổi thế giới tâm tình, khơi gợi những tình cảm mạnh mẽ, thúc đẩy nghệ sỹ sáng tạo và tạo lập những thế giới nghệ thuật độc đáo. Xuyên suốt hành trình sáng tác văn chương của dân tộc ta là cảm hứng yêu nước, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự. Theo Từ điển tiếng Việt ( Nxb Đà Nẵng 2006) thì “thế sự” tức là việc đời (gồm thời thế và thế thái nhân tình). Nói đến cảm hứng thế sự là nói đến cảm hứng về cuộc sống đời thường, về con người của thực tại. Những tác phẩm mang cảm hứng thế sự thường hướng đến sinh hoạt hàng ngày của con người, khám phá mọi phức tạp, éo le và cả cái cao quý trên hành trình đi tìm sự sống và hạnh phúc của con người. Cảm hứng thế sự đã xuất hiện trong thơ từ thế kỉ XV. Kế thừa cảm hứng yêu nước và âm hưởng còn sót lại của hào khí Đông A, văn chương giai đoạn này chuyển dần sang cảm hứng thế sự, đi vào chuyện đời tư, chuyện người, phê phán các tệ nạn xã hội, sự suy thoái về đạo đức con người. Cảm hứng ấy xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi, thơ Lê Thánh Tông, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm…Cảm hứng thế sự còn tồn tại và phát triển theo tiến trình lịch sử dân tộc. Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, lịch sử sang một trang mới tươi sáng hơn. Đến thập kỉ 80, đặc biệt sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), không khí đổi mới- dân chủ tác 12 động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật. Văn nghệ sĩ được “cởi trói”, được tự do sáng tác. Họ có nhiều trăn trở về trách nhiệm của người cầm bút trong sự nghiệp đổi mới nền văn học nước nhà. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong văn học 1945-1975 được thay thế bằng cảm hứng thế sự. Con người sử thi được thay thế bằng con người nếm trải. Đề tài, chủ đề không còn bó hẹp, thiên về khai thác các vấn đề liên quan đến những nhiệm vụ chính trị trước mắt mà được mở rộng đến các đề tài về gia đình, thân phận, tình yêu, số phận con người…Nếu như trước đây, các nhà thơ thường e ngại, né tránh, ngại ngùng khi khai thác những mặt trái, góc khuất, phần chìm của hiện thực cuộc sống thì trong thơ sau 1975, nhiều nhà thơ đã công khai khai thác những khía cạnh ấy. Đó là những nỗi buồn vì cuộc sống mưu sinh làm cho con người chỉ chú ý đến chuyện tồn tại và có những trắc ẩn về riêng tư, lừa dối: Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng” (Lâm Thị Mĩ Dạ) Cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một quán tính nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này xuất hiện hàng loạt trường ca có ý nghĩa như những bức tranh hoành tráng tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Sự thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật trong các trường ca này so với thơ ca thời chống Mỹ là ở chỗ, tuy vẫn mang chủ âm hào hùng, nhưng các nhà thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của con người. Nói khác đi, trong khi cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan tâm trực diện đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất nước được đo ướm bằng nỗi đau của cá nhân: Một mình một mâm cơm/ Ngồi bên nào cũng lệch/ Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền. (Hữu Thỉnh - Đường tới thành phố) Trong những trường ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật cái tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với 13 những suy tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người. Thứ hai, trong những năm cuối thập kỷ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ đời thường” xuất hiện nhiều. Chưa bao giờ các nhà thơ thấy nhiều bi kịch đến thế. Thậm chí, cảm giác bế tắc và chán nản là cảm giác khá nổi bật trong tâm trạng nhiều người: Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi (Nguyễn Trọng Tạo -Tản mạn thời tôi sống) “ Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay đắng của mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất hạnh của con người trong cuộc sống đầy khốn khó. Lưu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào khi nghĩ về Tổ quốc. Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một hiện thực kỳ vĩ và cảm hứng sử thi không còn xuất hiện như là hiện tượng nổi bật của thơ ca giai đoạn này. Trái lại, bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm nghiệm, nhiều thi phẩm sau chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết róng những mặt trái của đời sống, những thay đổi các thang bậc giá trị và không né tránh việc nói đến những bất công xã hội. Đây là những cảm hứng hiếm khi xuất hiện trong thơ 1945- 1975, khi mà số phận dân tộc và số phận cá nhân hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn thống nhất. Cái nhìn nghệ thuật trong thơ sau 1975 là cái nhìn với cự ly gần, “suồng sã”, đối tượng hiện lên như một sự thật không mang màu lý tưởng hóa. Theo đó, thể tài thế sự, đời tư trở nên nổi bật và gắn liền với nó là chất giọng “tự thú” và chất giọng giễu nhại. Ở đây chất giọng giễu nhại mang trong mình nó ít nhất hai chức năng nghệ thuật cơ bản: làm cho thơ bớt đi sự nghiêm trang thái quá, ngôn ngữ thơ bớt đi sự “trong suốt” mà tăng thêm phù sa của “cây đời”; cho phép người đọc hình dung cuộc sống như một thực thể đa trị, bên cạnh cái trong veo, thuần khiết là những thứ “tèm nhem tâm hồn”. Cả hai đều tồn tại bình đẳng trong một thế giới không phải lúc nào cũng được cắt nghĩa theo logic nhân quả. Bởi thế, gắn liền với giọng điệu tự thú là chất giọng hoài nghi. Chỉ 14 có điều cái nhìn hoài nghi cần được nhìn nhận trong mối quan hệ biện chứng, khi ta hoài nghi một giá trị có nghĩa là bắt đầu ta đã nghiêng về một giá trị khác (hoặc ít nhất ta không còn ràng buộc mình trong giá trị cũ). Đó là lý do ta hiểu vì sao cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội. Bước vào những năm 80, khi cái tôi sử thi trong thơ mờ dần, thay vào đó là cái tôi thế sự với những cảm xúc khác, những nỗi buồn, sự lo âu, tâm trạng xót xa, day dứt trước hiện trạng xã hội, nhân thế. Sự chuyển hướng ấy có thể thấy rõ ở những nhà thơ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ như Hữu Thỉnh. Là một người nặng suy tư, trăn trở về những vấn đề cuộc sống, Hữu Thỉnh luôn gửi vào trang thơ của mình một nỗi niềm riêng: Mới một lát làm người, Cây bỗng đòi bóng lại; Người sống với người thế nào? 1.3. Hành trình thơ Hữu Thỉnh. Hữu Thỉnh sinh ngày 15 tháng 2 năm 1942, tên thật là Nguyễn Hữu Thỉnh, bút danh là Vũ Hữu. Ông quê ở làng Phú Vinh, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hữu Thỉnh sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học. Năm 1963, ông nhập ngũ và tham gia chiến đấu ở binh chủng Tăng Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Sau khi chiến tranh kết thúc, năm 1975 Hữu Thỉnh học Đại học Văn hóa và thuộc lớp sinh viên khóa đầu trường viết văn Nguyễn Du. Từ 1982 Hữu Thỉnh về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Tại đây ông đảm nhiệm các chức danh: trưởng ban thơ, phó Tổng biên tập. Từ 1990, ông chuyển sang công tác tại Hội nhà văn Việt Nam, trở thành Tổng biên tập báo Văn nghệ. Hữu Thỉnh tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa III, IV, V. Năm 2000, tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam khóa V, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII, 15 Hữu Thỉnh tiếp tục được bầu là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ 2010-2015, đây là nhiệm kỳ thứ 3 liên tiếp ông được bầu là người đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam. Thơ Hữu Thỉnh luôn đằm thắm thiết tha và gắn bó với đất nước, quê hương, với cuộc đời bằng bút pháp thơ tài hoa, đặc sắc. Thơ Hữu Thỉnh là sự vận động phát triển từ cái tôi trữ tình lãng mạn, đằm thắm đến cái tôi trữ tình đầy suy tư, trăn trở với những suy ngẫm và triết lý sâu xa trước nhân tình thế thái. 1.3.1. Thơ Hữu Thỉnh trong kháng chiến chống Mỹ và thời hậu chiến. Năm 1964, khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào thời kỳ mới, gay go, căng thẳng, khốc liệt và dữ dội. Thời kỳ này, thơ được coi là một mũi nhọn, có tính xung kích nhất, thơ luôn bám sát hiện thực cuộc sống và phản ánh trung thành những sự kiện lớn lao của đất nước, phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm, hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Thơ không chỉ có mặt khắp mọi nơi, hòa theo dòng người, theo những đoàn quân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” mà thơ còn nối liền tình cảm, suy nghĩ của mỗi người thành tiếng nói cảm thông, trở thành nhịp đập chung của trái tim toàn nhân loại. Thơ đã ghi lại nhiều hình ảnh về con người, đất nước trong những năm tháng lịch sử không thể nào quên. Nối tiếp truyền thống thơ của những anh vệ quốc quân trong kháng chiến chống Pháp, những người lính chống Mĩ “lại viết thơ trên báng súng” (Hoàng Trung Thông). Bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc sẽ khuyết đi một mảng nếu thiếu vắng tiếng thơ của những nhà thơ trực tiếp cầm súng, xông vào trong lửa đạn, từng giờ, từng phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh, để tự nói về đồng đội của 16 mình. Chính hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó dẫn tới sự hình thành, xuất hiện một lớp nhà thơ trẻ chống Mĩ. Hữu Thỉnh là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ trẻ chống Mĩ, cùng với nhiều tên tuổi khác như: Thanh Thảo, Trần Mạnh Hảo, Anh Ngọc…Cũng như nhiều nhà thơ khác, Hữu Thỉnh luôn ý thức sâu sắc về vị trí, vai trò của thế hệ mình: “Không có sách chúng tôi làm ra sách Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình” ( Đường tới thành phố) Hữu Thỉnh, một nhà thơ- chiến sỹ đã thực sự hòa nhập vào cuộc chiến đấu. Bởi vậy, bằng con mắt của một người nhập cuộc, Hữu Thỉnh đã đưa vào thơ mình hiện thực của thời chiến tranh. Những sự kiện ấy luôn mang sức nặng biểu cảm và có giá trị thuyết phục bởi tính chân thực của nó qua những trải nghiệm của người lính. Hữu Thỉnh bộc bạch: “ Tôi và bạn bè trong lớp những nhà văn chống Mĩ chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những nhà thơ cách mạng lớp đầu và các nhà thơ kháng chiến chống Pháp. Như là sự sắp đặt lịch sử, về sau này hành trình thơ của chúng tôi cũng giống như các anh. Bối cảnh thì khác, quy mô và tính chất ác liệt cũng khác nhưng tinh thần dấn thân và nhập cuộc vẫn là một. Một cuộc dấn thân để tìm thấy sự kết hợp hài hòa giữa chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mỹ. Nói gọn trong một anh bộ đội có một thi nhân(…) Nhập cuộc và hành động có đòi hỏi hy sinh không? Có. Đó là có vụn vặt, quẩn quanh, lạc điệu và nguy cơ cạn kiệt tâm hồn (…) Nhập cuộc và hành động được gì? Rất nhiều: Cả một đời thơ. Cuộc sống cho anh bao nhiêu thứ, kể cả sự đào luyện nghiêm khắc để anh có thể trở thành “Con của vạn nhà” đã là cái lớn, chiến lược cho cả đời thơ” [90,5]

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net