Đảng bộ tỉnh hưng yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1997 2003

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Đảng bộ tỉnh hưng yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn 1997 2003

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐÀO THỊ VÂN ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA GIAI ĐOẠN 1997-2003 LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ ĐẢNG Mã số: 5 03 16 Người hướng dẫn: TS. PHẠM XUÂN MỸ Hà nội - 2004 MỤC LỤC Trang Mở đầu............................................................................ 1 Chương 1. Cơ sở của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở tỉnh Hưng yên giai đoạn 1997 - 2003.............................................. 7 1.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Vịêt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.............................................................................. 7 1.2. Thực trạng và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Hưng Yên......................................................................... 25 Chương 2. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 1997 - 32 2003........................................ 2.1 Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế (1997 - 2000)........................................................ 32 2.2. Quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2001 - 2003........................................... 49 Chương 3. Kết quả và một vài kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003........................... 75 3.1. Thành tựu và hạn chế chủ yếu 75 3.2. Một vài kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo chuyển dịch cơ cấú kinh tế của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003............................................................. 96 Kết luận........................................................................... 105 Danh mục tài liệu tham khảo........................................ 109 118 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng CSVN đã đề ra và không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện mà trung tâm là đổi mới kinh tế. Điều đó hoàn toàn phù hợp với xu thế thời đại và đòi hỏi của tình hình đất nước, đáp ứng đúng yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Hiện nay cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hoá kinh tế phát triển mạnh mẽ, đang tác động đến mọi quốc gia cũng như mỗi địa phương. Ở nước ta, đổi mới lấy phát triển kinh tế trước hết phải lấy phát triển lực lượng sản xuất, CNH, HĐH đất nước là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Xuất phát từ thực tiễn một nước nông nghiệp, kinh tế chưa phát triển, Đảng ta đã coi CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu của quá trình CNH, HĐH đất nước. Trong đó, chuyển dịch CCKT nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH là vấn đề cốt lõi quan trọng nhất, là qui luật phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nông nghiệp Việt Nam trong những năm đổi mới từ 1986 đến nay đã từng bước chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh theo hướng CNH, HĐH, tạo ra bước phát triển có tính đột phá trên lĩnh vực sản xuất hàng hoá. Qúa trình đó còn tác động mạnh đến công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thay đổi mạnh kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng nông thôn mới, củng cố khối đoàn kết liên minh công, nông, trí thức, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị và củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng. Hưng Yên là một tỉnh nông nghiệp thuộc châu thổ đồng bằng Bắc Bộ. Đây là vùng đất phù sa màu mỡ, phát triển sớm nghề sản xuất lúa nước với nhiều sản phẩm nổi tiếng. Với lợi thế tự nhiên có đường quốc lộ số 5, đường sắt Hà Nội - Hải Phòng, nằm trong khu vực trọng điểm kinh tế phiá Bắc và 1 tam giác tăng trưởng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, sau khi cầu Thanh Trì, cầu Minh Khai xây dựng xong, cùng với các cầu Triều dương, Yên lệnh, Hưng Yên càng có nhiều lợi thế phát triển. Khi còn trong tỉnh Hải Hưng cũ, Hưng Yên đã phát huy được tiềm năng kinh tế nông nghiệp của mình. Từ khi tách tỉnh năm 1997 đến nay, Đảng bộ Hưng Yên đã có nhiều chủ trương lớn nhằm phát huy thế mạnh của tỉnh, thu hút mạnh nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, từng bước chuyển dịch CCKT của địa phương theo hướng CNH, HĐH, nền kinh tế của tỉnh đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, cơ sở hạ tầng và đời sống nhân dân trong tỉnh ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên trong quá trình phát triển kinh tế, Hưng Yên đang còn những hạn chế và đang đối mặt với nhiều vấn đề mới nảy sinh. Thực hiện bước đi CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn như thế nào để phát huy thế mạnh của địa phương, tiếp tục phát huy truyền thống sản xuất lương thực thực phẩm hàng hoá, phát triển các khu công nghiệp, kết hợp kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ, du lịch, giải quyết việc làm, chế biến nông sản, thực phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ...? Đó là những câu hỏi đòi hỏi đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên tìm câu trả lời. Đề tài “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH giai đoạn 1997 - 2003” được chọn làm luận văn cao học ngành lịch sử, chuyên ngành Lịch sử ĐCSVN là để góp phần làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo giải quyết các vấn đề trên, rút ra những kinh nghiệm cần thiết, phấn đấu thực hiện mục tiêu đưa Hưng Yên trở thành một trong những tỉnh đi đầu của cả nước thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về chuyển dịch CCKT ở nước ta trong những năm đổi mới như : 2 - Giáo sư Đỗ Đình Giao: Chuyển dịch CCKT theo hướng công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân. NXB CTQG, Hà Nội, 1994. - TS Đặng Văn Thắng, TS Phạm Ngọc Dũng: Chuyển dịch CCKT công nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng, thực trạng và triển vọng NXB CTQG, Hà Nội 2003. - Luận văn thạc sĩ kinh tế: Phạm Văn Quế - “Chuyển dịch CCKT ở tỉnh Bình Dương theo hướng CNH, HĐH”, Trường ĐHKHXH & NV, ĐHQG Hà Nội, 1999. Một số bài báo viết về chuyển dịch CCKT trên một lĩnh vực cụ thể đăng trên báo Hưng Yên thời gian qua như bài “Phát triển làng nghề một hướng đi đúng” của Phạm Đức Nhuận (18/8/1999), bài "Công nghiệp - những khởi sắc” của Quốc Việt (1/9/1999), bài “Vùng đất mời gọi đầu tư” của Công Đán (8/10/2001), bài “Nên chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp như thế nào” của TS Lê Hưng Quốc (18/9/2002) và nhiều bài báo riêng lẻ khác. Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào tổng kết một cách hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn tỉnh. Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình mới mẻ do tôi tự nghiên cứu và thực hiện, chưa có ai nghiên cứu với những nội dung trên, tôi không có sự sao chép bất cứ một công trình khoa học nào khác. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn a. Mục đích nghiên cứu của luận văn - Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch CCKT ở địa phương giai đoạn 1997 - 2003. - Đánh giá bước đầu những thành tựu và hạn chế của quá trình chuyển dịch CCKT ở Hưng Yên. 3 - Nêu lên một số kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT giai đoạn 1997 - 2003. a. Nhiệm vụ của luận văn - Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Hưng Yên vận dụng đường lối của Đảng để lãnh đạo chuyển dịch CCKT ở tỉnh từ 1997 - 2003. - Chỉ rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của kết quả của quá trình đó. - Tổng kết một số kinh nghiệm trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên (1997 - 2003) làm cơ sở cho việc hoạch định công tác này trong thời gian tới. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Nội dung quá trình lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003 theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX của Đảng CSVN và thực hiện Nghị quyết Đại hội XIV và XV của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên. b. Phạm vi nghiên cứu Sự lãnh đạo của đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong thực hiện chuyển dịch CCKT trên các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và thương maị dịch vụ, các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế trên địa bàn tỉnh từ tháng 1/1997 (thời điểm tách tỉnh) đến hết tháng 12/2003. 5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu, nguồn tƣ liệu * Cơ sở lý luận Đây là một phần công trình khoa học lịch sử Đảng bộ địa phương, Luận văn dựa trên trên nền tảng lý lụân của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng 4 Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng CSVN về phát triển kinh tế, CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ đổi mới. * Phương pháp nghiên cứu - Trên cơ sở phương pháp luận sử học mac - xit, phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp đó để làm rõ quá trình Đảng bộ địa phương lãnh đạo trên một lĩnh vực kinh tế. - Luận văn có sử dụng các phương pháp thống kê, so sánh, lập bảng để trình bày kết quả nghiên cứu làm rõ nội dung nêu trên. * Nguồn tư liệu - Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế, các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX của Đảng CSVN và các Nghị quyết của BCH Trung ương Đảng, BBT , BCT các khoá VI, VII, VIII, IX về phát triển kinh tế. - Các Văn kiện Đại hội XIV, XV Đảng bộ tỉnh Hưng Yên và các Nghị quyết của BCH Đảng bộ tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ. - Các Quyết định của UBND tỉnh Hưng Yên và một số số liệu thống kê của Cục thống kê Tỉnh Hưng Yên. - Một số báo cáo tổng kết của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương mại - du lịch tỉnh Hưng Yên. 6. Đóng góp của luận văn - Đóng góp mới mẻ của luận văn là trình bày một cách tương đối hệ thống và toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo và tổ chức thực hiện chuyển dịch CCKT theo hướng CNH - HĐH ở Hưng Yên thời kì 1997 - 2003. - Chỉ rõ kết quả nổi bật của quá trình đó và bước đầu tổng kết một số kinh nghiệm lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ Hưng Yên trong chuyển dịch CCKT . 5 - Luận văn có thể góp một phần trong Lịch sử Đảng bộ địa phương lãnh đạo phát triển kinh tế trong thời kì đổi mới, cung cấp thêm tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn lịch sử Đảng CSVN thời kỳ đổi mới, phần lịch sử Đảng bộ Hưng Yên. - Luận văn có thể phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn Phương hướng phát triển kinh tế địa phương ở chuyên ngành đào tạo Văn - giáo dục công dân ở trường CĐSP Hưng Yên. 7. Bố cục của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, Luận văn được kết cấu thành 3 chương : Chương 1: Cơ sở của việc chuyển dịch CCKT theo hướng cụng nghiệp hoỏ, hiện đại hoỏ ở Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003. Chương 2: Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo chuyển dịch CCKT giai đoạn 1997 - 2003 Chương 3: Kết quả và một vài kinh nghiệm bước đầu trong lãnh đạo chuyển dịch CCKT của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên giai đoạn 1997 - 2003. 6 Chƣơng 1 CƠ SỞ CỦA VIỆC CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ THEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH HƢNG YÊN GIAI ĐOẠN 1997 - 2003 1.1. Chủ trƣơng của Đảng Cộng sản Vịêt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1. Cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế - khái niệm và nội dung cơ bản Trước xu thế toàn cầu hoá và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức trên thế giới hiện nay, mỗi quốc gia, mỗi địa phương đều phải tìm cách lựa chọn cho mình một phương án phát triển kinh tế thích hợp nhằm phát huy tối ưu lợi thế của mình. Để phát triển kinh tế, CNH, HĐH đang và sẽ là qui luật chung của tất cả các nước hiện nay, đặc biệt là với những nước kinh tế chưa phát triển như Việt Nam. Lịch sử kinh tế thị trường trên thế giới đã chỉ ra nhiều mô hình phát triển CCKT khác nhau. Chuyển dịch CCKT có vai trò rất quan trọng để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ngày càng hiện đại. Nhận thức sâu sắc điều đó, đường lối kinh tế của Đảng ta là lấy phát triển kinh tế là trung tâm, đẩy mạnh chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH. a. Về cơ cấu kinh tế Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam xuất bản năm 2003: CCKT là tổng thể các ngành, lĩnh vực, bộ phận kinh tế có quan hệ hữu cơ tương đối ổn định hợp thành. Các bộ phận của nền kinh tế có vị trí, tỷ trọng và quan hệ tương tác ràng buộc lẫn nhau, luôn luôn vận động hướng vào mục tiêu đã định cuả nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế giữ vai trò là cốt lõi của nền kinh tế - xã hội, thể hiện trình độ phát triển chuyên môn hoá các ngành kinh tế trong từng thời kỳ lịch 7 sử. CCKT phản ánh nội dung kinh tế của một xã hội, một vùng nên nó có tính lịch sử, không ngừng vận động và phát triển. CCKT không phải là hệ thống tĩnh mà là hệ thống động, các nhân tố của CCKT vận động trong mối quan hệ hữu cơ tác động lẫn nhau, ràng buộc chặt chẽ với nhau; giai đoạn sau cao hơn, hoàn thiện hơn so với giai đoạn trước. Cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, sự tăng trưởng của các yếu tố cấu thành nền kinh tế. Nội dung CCKT quốc dân rất phong phú, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ, lĩnh vực nhưng về cơ bản nội dung đó gồm: CCKT quốc dân, CCKT ngành và nội bộ ngành kinh tế - kỹ thuật, cơ cấu các thành phần kinh tế, cơ cấu các vùng kinh tế theo đơn vị hành chính - lãnh thổ. Trong các nội dung cơ bản của CCKT ở trên thì CCKT ngành là nội dung cơ bản nhất, có tính chất quyết định, phản ánh sự phát triển theo quan hệ cung cầu trên thị trường theo tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Cơ cấu các thành phần kinh tế chỉ rõ những lực lượng quan trọng thực hiện CCKT ngành, theo hướng của cơ cấu ngành, các thành phần kinh tế được tổ chức thực hiện. Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên từng lãnh thổ. cho nên, việc phân bố lãnh thổ một cách hợp lý để phát triển ngành và thành phần kinh tế có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xác định CCKT hợp lý có ý nghĩa chiến lược quan trọng, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, ổn định tình hình chính trị - xã hội ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Đó cũng là sự đòi hỏi khách quan của tái sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Nó phụ thuộc vào sự hiểu biết sâu sắc các nhân tố và lợi thế kinh tế, xã hội, kỹ thuật cụ thể ở từng vùng trong từng thời gian và khả năng tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế. Trên cơ sở đó khai thác và sử dụng có 8 hiệu quả nhất tài nguyên, đất đai, sức lao động, tư liệu sản xuất, tiềm năng của mình để phát triển các vùng, nâng cao đời sống nhân dân, khắc phục sự phát triển không đều giữa các vùng, các tầng lớp dân cư. Với ý nghĩa đó, sự lãnh đạo, điều hành kinh tế năng động, nhạy bén của các quốc gia và lãnh đạo các địa phương có vai trò vô cùng quan trọng nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của mình để phát triển kinh tế theo một CCKT hợp lý. Cơ cấu kinh tế hợp lý phải thoả mãn được năm yêu cầu cơ bản: Một là phù hợp với các quy luật khách quan mà trước hết là quy luật kinh tế cơ bản. Hai là khai thác hợp lý và phát huy được nguồn lực và tiềm năng của đất nước, từng vùng, từng địa phương, vận dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Ba là tạo nên sự phát triển cân đối, phát huy được lợi thế của các vùng, các ngành kinh tế. Bốn là tạo nên sự gắn kết giữa các loại thị trường trong nước và ngoài nước, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Năm là tạo được tích luỹ ngày càng tăng cho nền kinh tế quốc dân, cùng với phát triển xã hội phát triển lành mạnh, giữ vững quốc phòng an ninh. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ là xây dựng một CCKT gồm ba nội dung cơ bản sau: - Cơ cấu ngành: thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển nông - lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, đồng thời tăng tốc độ phát triển các ngành công nghiệp, mở rộng khu vực dịch vụ, từng bước đưa nền kinh tế phát triển toàn diện và theo hướng hiện đại. - Cơ cấu thành phần kinh tế: phát triển 6 thành phần kinh tế là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể - tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 9 - Cơ cấu vùng: phát triển các vùng kinh tế trọng điểm và các vùng chuyên môn hoá sản xuất có hiệu quả cao . b. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế Trong quá trình tái sản xuất xã hội, lực lượng sản xuất nói chung và giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế luôn luôn biến đổi, phát triển, vì thế CCKT cũng thường xuyên biến động, đó chính là quá trình chuyển dịch CCKT. Theo từ điển Bách Khoa Việt nam xuất bản năm 2003: Chuyển dịch CCKT là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, từng bứơc vào chuyên môn hoá hợp lý, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung. Chuyển dịch CCKT bao gồm việc cải biến CCKT ngành, vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế. Chuyển dịch CCKT là vấn đề khách quan và là quá trình đi lên từng bước dựa trên sự kết hợp hữu cơ các điều kiện chủ quan, các lợi thế kinh tế - xã hội, tự nhiên trong nước, trong vùng, trong đơn vị kinh tế với các khả năng đầu tư, hợp tác, liên kết, liên doanh về sản xuất, dịch vụ. c. Về công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khoá VII (7/1994) đă xác định rõ: “ CNH, HDH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ , tạo ra năng suất lao động xã hội cao” [8, tr.65]. 10 Nước ta hiện nay đang phát triển mạnh kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Vì vậy, chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là nhiệm vụ chiến lược tổng quát nhằm khai thác tối ưu lợi thế các ngành, các lĩnh vực, các vùng để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình chuyển dịch từ cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp sang cơ cấu công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Đặc trưng cơ bản là giá trị sản xuất của cả ba ngành đều tăng lên qua các giai đoạn, nhưng tỷ trọng của ngành nông nghiệp giảm dần trong CCKT quốc dân, sử dụng công nghệ cao với đội ngũ lao động trí tuệ ngày càng nhiều, tỷ lệ lao động nông nghiệp ngày càng giảm dần, lao động công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là quá trình phức tạp và kéo dài trong suốt thời kỳ quá độ. Đây là quá trình chưa có tiền lệ, Đảng và Nhà nước ta vừa tìm tòi con đường phát triển, nghiêm túc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước để đề ra chiến lược và bước đi chuyển dịch CCKT đúng hướng. Trong những năm gần đây, nhờ hoạt động theo cơ chế mới, với những bước đi hợp quy luật, CCKT ở nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH một cách tích cực và ngày càng hợp lý hơn. Tuy nhiên CCKT xã hội cũng đang tồn tại nhiều hạn chế và chịu nhiều tác động của nền kinh tế thế giới. Vì vậy, để thúc đẩy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH, Đảng CSVN đã nêu rõ các quan điểm cơ bản sau đây: - Chuyển dịch CCKT phải thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, phù hợp với mô hình kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. - Chuyển dịch CCKT phải khai thác tối ưu khả năng, thế mạnh của từng vùng kinh tế trong cả nước và phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành 11 phần kinh tế. Cần tập trung đúng mức đến việc đầu tư một số vùng kinh tế trọng điểm có khả năng thu hồi vốn nhanh, hiệu quả kinh tế cao. - Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo quy mô hợp lý và bước đi thích hợp, chú trọng quy mô vừa và nhỏ, vốn đầu tư ít, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt chú ý hình thành và phát triển các ngành kinh tế trọng điểm và mũi nhọn có công nghệ kỹ thuật tiên tiến hiện đại. - Chuyển dịch CCKT phải đảm bảo nền kinh tế hoạt động có hiệu quả, bảo đảm môi trường sinh thái bền vững, tăng cường ổn định chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng. - Chuyển dịch CCKT phải phù hợp với xu hướng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tranh thủ khả năng thu hút vốn và công nghệ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT. Vấn đề xuyên suốt là “Quá trình chuyển dịch CCKT được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường được nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng công cụ quản lý vĩ mô và bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung” [5, tr.12]. 1.1.2. Tầm quan trọng và vai trò của chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Bất cứ quốc gia phát triển nào đều tất yếu trải qua thời kỳ công nghiệp hoá. Đó là quá trình công nghiệp hoá ở nước Anh thế kỷ XVIII, ở Nhật Bản thế kỷ XIX, ở các nước NICS như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Công, Singapore thế kỷ XX. Ở mức độ khác nhau, các nước đó đều đạt được những thành công trong quá trình công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá là nhiệm vụ tất yếu, là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế của nước ta. Đại hội đại biểu 12 toàn quốc lần thứ III (9 - 1960) của Đảng đã đề ra đường lối công nghiệp hoá là: “Thực hiện công nghiệp hoá XHCN bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” [12, tr.559]. Hiện nay hoàn cảnh quốc tế và điều kiện trong nước, thế và lực của đất nước ta đã khác nhiều so với trước. Những thành tựu của 18 năm đổi mới đã tăng cường thế và lực của đất nước, cả bên trong lẫn bên ngoài cho phép chúng ta chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, do điểm xuất phát thấp về kinh tế và phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt nên chúng ta đang đứng trước những thách thức to lớn về kinh tế như nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Để đẩy lùi nguy cơ đó, thúc đẩy sự nghiệp CNH - HĐH, đòi hỏi chúng ta phải tìm cách chọn lựa những bước đi và có CCKT hợp lý. Nội dung cơ bản của CNH, HĐH bao gồm hai vấn đề cốt lõi là áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới vào các ngành kinh tế và xây dựng CCKT phát triển hợp lý, có hiệu quả và ngày càng hiện đại. Chuyển dịch CCKT và CNH, HĐH có mối quan hệ biện chứng, gắn bó với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Chuyển dịch nền CCKT theo hướng hiện đại sẽ tạo điều kiện thuật lợi và là nội dung cốt lõi của CNH, HĐH. Quá trình chuyển dịch CCKT vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của quá trình CNH, HĐH và ngược lại CNH, HĐH nền kinh tế tạo điều kiện tiền đề vật chất - kỹ thuật và là con đường, phương hướng, mục tiêu thúc đẩy chuyển dịch CCKT từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ mà chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thành một nền kinh tế công nghiệp ngày càng hiện đại có năng xuất lao động cao, có khả năng phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 13 Đối với nước ta hiện nay chuyển dịch CCKT tất yếu phải gắn liền và phải phát triển theo hướng CNH, HĐH. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là nội dung, là điều kiện cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế quốc dân, thực hiện mục tiêu đến 2020 nước ta về cơ bản sẽ trở thành nước công nghiệp. Chuyển dịch CCKT là chiến lược kinh tế tổng quát nhằm khai thác lợi thế tối ưu của các vùng, các ngành, các lĩnh vực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tạo nên sự gắn kết giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế, xuất hiện những yêu cầu lớn hơn để các yếu tố tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển . Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, chỉ có chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH mới có thể khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế thế giới, thu hút các nguồn vốn đầu tư, kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ tiên tiến thế giới. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH có vai trò quan trọng trong quá trình nâng cao vị trí chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị XHCN, từ đó thúc đẩy sự nghiệp giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ phát triển văn hoá xã hội, tăng cường khối đoàn kết dân tộc, giữ vững an ninh quốc phòng, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa các vùng, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nông thôn với thành thị... tạo động lực cho phát triển toàn diện của đất nước. Chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH sẽ làm thay đổi căn bản bộ măt nông thôn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân (hiện nay nông dân chiếm tới 76% dân số và 73% lực lượng lao động của toàn xã hội ); góp phần củng cố khối đoàn kết liên minh công, nông, trí thức, nâng cao niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ và con đường đi lên CNXH. 14 Như vậy chuyển dịch CCKT theo hướng CNH, HĐH là một trong những nội dung kinh tế cốt lõi trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. 1.1.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH và con đường tiến lên CNXH. Người chỉ rõ trong nền kinh tế Việt Nam “Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế, cho nên công nghiệp, nông nghiệp phải giúp đỡ nhau cùng phát triển như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh chóng tiến đến mục đích” [15, tr.544-545]. Người nói: “Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hoá, giáo dục, y tế. Các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm” [16, tr.396]. “Nông thôn tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm thì ngày càng giàu có, nông thôn giàu có sẽ mua nhiều hàng hoá của công nghiệp sản xuất ra đồng thời sẽ cung cấp đủ lương thực, nguyên liệu cho công nghiệp và thành thị. Như thế là nông thôn giàu có giúp cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp phát triển mạnh hơn nữa. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển thì dân giàu, nước mạnh” [15, tr.405-406]. Những tư tưởng trên của Hồ Chí Minh đã đặt nền móng quan trọng cho việc xây dựng một CCKT hợp lý giữa công nghiệp và nông nghiệp trong xây dựng CNXH ở nước ta. Trong quá trình xây dựng CNXH ở miền Bắc 1954 - 1975 và trên cả nước 1975 - 1985, căn cứ vào tình hình lịch sử cụ thể, Đảng ta đã có nhiều chủ trương để phát triển kinh tế, trong đó nhấn mạnh vai trò và mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên do nhiều lý do khách quan và chủ quan, trong đó có lúc còn nóng vội trong 15 việc xác định mô hình kinh tế, vì vậy xác định phát triển CCKT có những yếu tố không hợp lý, nên CCKT của cả nước và các địa phương suốt trong thời gian dài có sự chuyển dịch không đáng kể, hạn chế tăng trưỏng kinh tế, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội, đời sống nhân dân rất khó khăn. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đã tổng kết nêu lên bốn bài học kinh nghiệm lớn, trong đó có bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng” [3, tr.20]. Bài học này có ý nghĩa lớn nhưng quan trọng nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Tư tưởng chủ đạo của các chính sách kinh tế của Đảng tại Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là: ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường tiếp theo” [3, tr.42]. Một trong những mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội của chặng đường đầu tiên là tạo ra CCKT hợp lý, hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. “Trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1985 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu [3, tr.47]. Đại hội VI chỉ rõ trong toàn bộ quá trình xây dựng CNXH, kể cả trong chặng đường hiện nay không được tách rời nông nghiệp với công nghiệp, không chỉ coi trọng nông nghiệp hoặc công nghiệp, nhưng ở mỗi giai đoạn, 16 trong từng chặng đường, vị trí của nông nghiệp và công nghiệp có khác nhau, trong chặng đường hiện nay phải tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn CNXH. Đây là cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá XHCN trong chặng đường đầu tiên lên CNXH ở nước ta, là bước đột phá trong tư duy và nhận thức đổi mới về chuyển dịch CCKT trong thời kì mới của Đảng ta. Tiếp tục bước chuyển đó, Hội nghị Trung ương 3 khoá VI (8/1987) đã ra Nghị quyết “Về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh XHCN, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế”. Ngày 5/4/1988 BCT đã ra NQ10/NQ - TW “Về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”. Đây là bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch CCKT của Đảng theo hướng mới ở nước ta. Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã tổng kết 5 năm đổi mới khẳng định thành tựu đầu tiên trên lĩnh vực kinh tế là đã đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế. “Những kết quả thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố trí lại CCKT ” [4, tr.19-20]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên CNXH, thông qua Đại hội VII đã chỉ rõ “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại hoá gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” [6, tr.9]. “Khi kết thúc thời kỳ quá độ, hình thành về cơ bản nền kinh tế công nghiệp với CCKT công - nông nghiệp - dịch vụ gắn với phân công và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong qúa trình chuyển đổi CCKT lạc hậu 17 lên CCKT hiện đại, nền kinh tế quốc dân sẽ gồm nhiều ngành nghề, nhiều qui mô nhiều trình độ công nghệ, phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển kinh tế dịch vụ, xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Xây dựng nền công nghiệp nặng với bước đi thích hợp, trước hết là các ngành trực tiếp phục vụ nông nghiệp. Thực hiện chuyên môn hoá và liên kết kinh tế giữa các vùng, các địa phương. Xây dựng các trung tâm kinh tế của từng vùng để tạo điều kiện liên kết công nghiệp với nông nghiệp, thành thị với nông thôn” [6, tr.12]. Để tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, Hội nghị Trung ương 5 khoá VII (6-1993) đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn” đánh giá thực trạng nông nghiệp, nông thôn nước ta qua những năm đầu đổi mới và khẳng định: “Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của BBT (khoá IV), Nghị quyết 10 của BCT (khoá VI) được triển khai cùng với các Chỉ thị, Nghị quyết khác của các Đại hội và Hội nghị trung ương các khoá V, VI, VII đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước ta” [7, tr.53]. Tại Hội nghị Trung ưong 5, Đảng ta đã xác định 4 quan điểm cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta trong giai đoạn mới là: 18

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net