Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ KIM THANH VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ  NGUYỄN THỊ KIM THANH VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐẶNG HỮU TOÀN HÀ NỘI - 2013 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 Chương 1. TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA .............................. 7 1.1. Tư duy và tư duy biện chứng ............................................................. 7 1.1.1. Tư duy là quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với hiện thực khách quan ................................................................................ 7 1.1.2. Bản chất và đặc điểm của tư duy biện chứng ................................... 14 1.2. Vai trò cuả tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ............................................................................................... 32 1.2.1. Khái niệm lãnh đạo, quản lý kinh tế ................................................ 33 1.2.2. Tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế ..................................................... 38 1.2.3. Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ............................................................................................... 41 Chương 2. THỰC TRẠNG TƯ DUY VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ............................................... 46 2.1. Thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay ............................................................................... 46 2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay ........................................... 46 2.1.2. Những ưu điểm và nhược điểm trong tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay ...................................... 61 2.2. Yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay .............................. 76 2.2.1. Nắm bắt các quy luật của kinh tế thị trường .................................... 76 2.2.2. Tư duy về kinh tế phải thật sự năng động, nhạy bén, sáng tạo ............. 77 2.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy về kinh tế với tư duy về chính trị ...... 78 2.2.4. Kết hợp tư duy về kinh tế với tư duy về pháp quyền, đạo đức, văn hóa, xã hội và môi trường ......................................................... 80 2.2.5. Tư duy phải hướng tới hiệu quả và lợi ích kinh tế ........................... 82 Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ........................................................................ 84 3.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .................................. 84 3.1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cơ sở hình thành tính năng động, sáng tạo của tư duy ......................................................................................... 84 3.1.2. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhân tố phát triển tư duy biện chứng duy vật ở cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ............................................................................................... 93 3.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức văn hóa, khoa học - công nghệ và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế .......................................................................... 98 3.2.1. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua đào tạo, bồi dưỡng tri thức văn hóa nói chung và khoa học kinh tế, quản lý kinh tế nói riêng ................................................................................ 98 3.2.2. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua công tác đào tạo, bồi dưỡng về lý luận ................................................................ 100 3.3. Đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, coi trọng việc rèn luyện, nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế thông qua hoạt động thực tiễn của họ ............................ 106 KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 111 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 114 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã khẳng định rằng, cán bộ là một nhân tố quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, công cuộc đổi mới, mà trọng tâm là đổi mới kinh tế ở nước ta chỉ có thể thắng lợi khi các cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cần thiết, có trình độ tư duy cao đáp ứng được nhiệm vụ mới - đó là tư duy biện chứng. Nhận thức rõ điều đó, nghị quyết các đại hội Đảng trong nhưng năm đổi mới cũng như nhiều nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy, trí tuệ đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Đại hội XI của Đảng (2011) một lần nữa khẳng định chủ trương tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong từng khâu của công tác cán bộ; xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng những người có đức, có tài; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp,… Với một đội ngũ khá đông được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau và trưởng thành từ thực tiễn chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta thời gian qua đã góp phần không nhỏ đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh về phẩm chất đạo đức, kinh nghiệm thực tiễn và năng lực tư duy, những yếu kém về tư duy lý luận, sự lạc hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn, mà đặc biệt là sự yếu kém về tư duy biện chứng được biểu hiện trên các căn bệnh trong phương pháp tư duy, như lối tư duy siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, bảo thủ, chủ 1 quan duy ý chí... đã dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo hoạt động kinh tế. Những yếu kém về tư duy biện chứng, về phương pháp tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế đang là một vấn đề hết sức cấp bách cần phải giải quyết khi nước ta đang tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, sự thành công hay không thành công của quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế hiện nay. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc vai trò tư duy biện chứng, cũng như đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu về phương diện tư duy ở cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, làm rõ tầm quan trọng của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế trong quá trình đổi mới hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp đúng đắn nhằm phát triển, rèn luyện, nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Đây cũng là yêu cầu cấp bách mà cả lý luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra. Vì những lý do đó, tác giả đã chọn vấn đề "Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề tư duy và tư duy biện chứng duy vật đã được đề cập đến một cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin. Ở Liên xô trước đây, vấn đề này chủ yếu được bàn đến khi các tác giả trình bày về lịch sử triết học, về phép biện chứng, lôgíc học hoặc những vấn đề của lý luận nhận thức. Xin nêu một số công trình quan trọng sau: - I.X. Narxki, Gorxki: Phép biện chứng của nhận thức khoa học, Mátxcơva, 1978; N.C. Vắctômin: Thực tiễn - tư duy - tri thức, Mát-xcơva, 1978. - M.M. Rôdentan: Nguyên lý lôgíc biện chứng, Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, 1979; 2 - K.C. Orutjep: Lôgic biện chứng, Mátxcơva, 1981; - I.D. Anđrâyep: Lôgíc biện chứng, Mát-xcơva, 1985; - Lịch sử phép biện chứng mácxít. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến giai đoạn Lênin. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986; - A.P. Septulin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1987 Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới đất nước, đã có rất nhiều công trình tập trung nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau của vấn đề tư duy, tư duy biện chứng và thu được kết quả to lớn. Xin nêu một số công trình cơ bản sau: - Lê Hữu Tầng: Về phương pháp biện chứng, Triết học, số 3/1984; - Ngô Thành Dương: Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật, Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1986. - Nguyễn Văn Linh: Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987. - Nguyễn Duy Quý: Đổi mới tư duy: Nội dung và phương hướng, Triết học, số 1/1987; - Nguyễn Ngọc Long: Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư duy, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987; - Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán bộ ta, Triết học, số 2/1988; - Trần Hữu Tiến: Đổi mới tư duy lý luận - vấn đề cấp bách hiện nay, trong sách: “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận”, Học viện Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988; - Lại Văn Toàn: Đổi mới tư duy. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới, Triết học, số 1/1988; - Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên): Về sự phát triển của xã hội ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991. 3 - Phạm Ngọc Quang: Thử vận dụng lý luận về mâu thuẫn vào thời kỳ quá độ ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; - Vũ Văn Viên: Suy nghĩ về những định hướng trong nghiên cứu và giảng dạy Lô gích học thời gian tới, Triết học, số 1/1992; - Hồ Bá Thâm: Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án PTS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; - Trần Văn Phòng: Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994; Tuy nhiên, có một điểm chung là đa số các tác giả đều tiếp cận vấn đề từ góc độ triết học, do đó thường tập trung vào giải quyết những vấn đề lý luận chung, mang tính khái quát và phổ biến. Bên cạnh đó cũng có một số tác giả bàn riêng về tư duy kinh tế, nhưng trong các tác phẩm này mối liên hệ giữa tư duy biện chứng với tư duy kinh tế dường như chưa được quan tâm đúng mức. Như vậy, cho đến nay, dường như chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách riêng biệt, có hệ thống và chuyên sâu về vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm sáng tỏ vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, cũng như thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ này ở nước ta, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn - Làm rõ các phạm trù tư duy, tư duy biện chứng - Làm rõ vai trò tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. 4 - Phân tích thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay và yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng ở đội ngũ cán bộ này. - Đề xuất phương pháp và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực và trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư duy biện chứng của cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta từ khi đổi mới đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý của phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng. Luận văn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng các Nghị quyết của Đảng, sử dụng các công trình của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận văn. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp, như phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; lịch sử và lôgíc; phương pháp so sánh; phương pháp thống kê và các phương pháp khác. 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần làm rõ vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta hiện nay. - Khái quát một số đặc điểm nói lên thực trạng tư duy ở cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ này ở nước ta hiện nay. 5 Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho công tác đào tạo, qui hoạch và sử dụng cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay. Kết quả của luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Xây dựng Đảng, Kinh tế học... trong hệ thống các trường Đảng, các trường đại học và cao đẳng ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 7 tiết. 6 Chương 1 TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA 1.1. Tư duy và tư duy biện chứng 1.1.1. Tư duy là quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với hiện thực khách quan Tư duy là một thuộc tính cố hữu của con người, là một trong những tiêu chí để đánh giá năng lực hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ thể. Việc nghiên cứu tư duy, vì lẽ đó, đã từ lâu rất được chú trọng. Tư duy của con người được nghiên cứu trong những lĩnh vực khoa học khác nhau. Chẳng hạn: sinh lý học nghiên cứu tư duy với tính cách là hoạt động của hệ thần kinh cao cấp; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong sự tác động qua lại của hệ thần kinh cao cấp, não người, với môi trường xung quanh; điều khiển học nghiên cứu về cơ chế điều khiển giữa tư duy và các hoạt động vật chất của cơ thể, tìm ra mối tương quan giữa tư duy con người và hoạt động tự điều khiển của các hệ thống máy móc; nhận thức luận nghiên cứu tư duy trong mối tương quan giữa chủ thể và khách thể trong quá trình nhận thức, trong quan hệ giữa tri thức và hiện thực; lôgíc học nghiên cứu những hình thức và những quy luật của tư duy đúng đắn nhằm nhận thức chân lý, v.v. Trong lịch sử triết học đã có những quan điểm tách rời tư duy khỏi dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người, tách rời tư duy khỏi hoạt động thực tiễn xã hội. Quan điểm đó có chăng chỉ thừa nhận tư duy của những "cá nhân riêng lẻ như là một cái gì sinh ra từ một số bản nguyên tinh thần đứng trên vật chất và ý thức của những con người riêng lẻ" [132, tr. 635]. Chẳng hạn, đó là quan điểm của triết học Hêghen. Hêghen không hiểu tư duy theo nghĩa thông thường. Với Hêghen, tư duy rộng hơn năng lực chủ quan thuần túy. Ông không chỉ hiểu tư duy theo nghĩa bó hẹp trong phạm vi ý thức cá nhân như một năng lực chủ quan của 7 con người, mà hiểu theo nghĩa rộng. Đó là ý niệm tuyệt đối đã sáng tạo ra giới tự nhiên và con người. Tư duy của con người là giai đoạn phát triển cao nhất, trong đó ý niệm tuyệt đối nhận thức được bản thân nó. Hêghen phân biệt hai loại tư duy: Tư duy tự nó - chính là ý niệm tuyệt đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; Tư duy cho nó - tức là tư duy con người. Tư duy tự nó là tư duy ở giai đoạn phát triển cao nhất. Chỉ có ở đây mới có tư duy theo đúng nghĩa của danh từ này. Hêghen khẳng định: "Giới tự nhiên chỉ là tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật vật chất, hay còn gọi là tư duy khách quan vô thức, còn tư duy con người là tư duy chủ quan có ý thức. Chúng đồng nhất về nội dung... Tư duy của mỗi người phải hoạt động theo những quy luật chung của tư duy, tức tư duy tự nó" [137, tr. 207]. Trái lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng: Tư duy - sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất được tổ chức một cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong các khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v. Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt động sản xuất xã hội của con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại... [132, tr. 634]. Ph. Ăngghen viết: "Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con người" [67, tr. 55]...; "Ý thức, cũng như tư duy của chúng ta có vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật chất, nhục thể, tức bộ óc" [68, tr. 408]. Tư duy là một sản phẩm xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất hiện lẫn phương thức hoạt động, cả về các kết quả của nó. Mặc dầu không tách khỏi bộ não, song tư duy vẫn không thể được lý giải một cách hoàn toàn chỉ bằng các quá trình sinh lý của não. Ngoài yếu tố sinh học được xem là yếu tố cơ bản của tư duy, yếu tố xã hội là yếu tố có tính chất quyết định. Bởi lẽ, tư duy chỉ tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động và ngôn ngữ - hoạt động mang đặc trưng của xã hội loài người. Theo C. Mác, 8 ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Thiếu ngôn ngữ tư duy không tồn tại được. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để con người giao tiếp, trao đổi tư tưởng với nhau, mà nó còn là phương tiện lưu trữ tư duy, thực hiện cơ chế "di truyền" xã hội, phản ánh khái quát về sự vật, tổng kết các hoạt động của con người giữa các thế hệ nối tiếp nhau trong lịch sử. Tư duy phản ánh sự vật, còn ngôn ngữ thể hiện, biểu đạt sự vật. Nếu như tư duy có chức năng khái quát, tạo thông tin, thì ngôn ngữ là công cụ chuyển tải thông tin. Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được biểu hiện ở khả năng con người có thể xây dựng được những khái niệm chung, và cao hơn nữa là các phạm trù. Gắn liền với việc xây dựng các khái niệm, là việc phát hiện ra các quy luật tương ứng. Tư duy phản ánh thực tại một cách gián tiếp, xuất phát từ chỗ phân tích những sự kiện có thể tri giác được một cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì không thể tri giác được nhờ các giác quan. Nghĩa là, từ những tri thức có thể nhận thức được bởi các giác quan, quá trình tư duy làm cho con người có khả năng nhận thức được đối tượng mà không thông qua giác quan cụ thể - nhận thức gián tiếp. Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Tính tích cực của tư duy thể hiện ở chỗ nó vượt lên nhận thức cảm tính, tự nó xây dựng nên hệ thống các tri thức về hiện thực khách quan trong tính toàn vẹn, phản ánh được bản chất của sự vật. Căn cứ trên bản chất của con người là một thực thể năng động, sáng tạo, luôn muốn vươn tới nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, V.I. Lênin cho rằng, thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động thực tiễn của mình. Tư duy còn có năng lực xây dựng các khái niệm, phạm trù, liên kết chúng lại thành các "mạng lưới", hệ thống hóa các tri thức, chỉ ra mối liên hệ, quan hệ giữa chúng với nhau, khái quát được các quy luật chi phối tự nhiên, xã hội, và bản thân nó - tư duy, để từ đó khám phá (có thể bằng con đường trực tiếp hoặc gián tiếp) các tri thức 9 mới. Tuy nhiên, năng lực sáng tạo của tư duy ở mỗi người là không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố căn bản như: điều kiện lịch sử xã hội, thể chất của con người, môi trường xã hội... Có thể nói tư duy mang bản chất người, thuộc phạm trù trí tuệ người, giúp cho con người nhận thức, khám phá các thuộc tính, các mặt, các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đi sâu tới từng cấp độ của bản chất, phát hiện ra những quy luật vận động và phát triển của hiện thực khách quan. Quá trình tư duy cũng đồng thời là quá trình vận dụng tri thức vào đời sống hiện thực. Hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội quy định tư duy. Trong quá trình cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội, con người cũng cải tạo chính bản thân mình, biến đổi và phát triển tư duy: "Trí tuệ con người đã phát triển song song với việc người ta học cải biến tự nhiên" [67, tr. 720]. Nếu như hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực chủ yếu của tư duy, thì chính thực tiễn cũng là tiêu chuẩn cao nhất của tư duy, là cái điều chỉnh tư duy. C. Mác nói: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn" [64, tr. 9-10]. Thực tiễn là nơi cung cấp tài liệu cho tư duy. Các giác quan phản ánh hiện thực thành các dữ liệu, với tính năng động và sáng tạo, với hàng loạt các thao tác: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa, v.v., tư duy chế biến chúng, tạo ra tri thức mới, phản ánh bản chất của đối tượng. Những tri thức này lại được đưa vào thực tiễn để kiểm tra, đồng thời để triển khai sức mạnh của nó. V.I.Lênin đã diễn đạt một cách cô đọng biện chứng của tư duy trừu tượng và trực quan sinh động cùng với thực tiễn như sau: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan" [55, tr. 179]. Tư duy có một số đặc trưng sau: 10 Thứ nhất: Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây được hiểu là những dấu hiệu, những thuộc tính chung của sự vật. Tư duy là trình độ nhận thức ở mức lý tính, và chỉ ở trình độ nhận thức này mới có thể phản ánh được những thuộc tính chung, mang tính phổ biến và cơ bản của sự vật. Trong hiện thực khách quan, cái chung tồn tại như cái chung của nhiều sự vật, đồng thời, nó cũng không tách rời cái riêng, cái đặc thù. Cần phân biệt cái chung trong hiện thực và trong tư duy. Nếu như trong hiện thực, cái chung không tách ra một cách độc lập mà nằm trong cái riêng, thì trong tư duy, cái chung được phân xuất thành ra thành cái tồn tại tự nó, tách khỏi cái riêng cảm tính, được trừu tượng hóa khỏi mọi cái riêng cảm tính. Thứ hai: Trừu tượng hóa cũng là nét đặc trưng của tư duy. Như trên đã trình bày, trong hiện thực cái chung không tách khỏi cái riêng. Việc tách cái chung ra khỏi cái riêng trong tư duy chính là sự trừu tượng hóa. Nói như vậy không có nghĩa việc tách cái chung ra khỏi cái riêng là tất cả sự trừu tượng hóa của tư duy. V.I.Lênin nói về tính ưu việt của sự trừu tượng hóa như sau: "Những sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên, sự trừu tượng về giá trị, v.v., Tóm lại, tất cả những sự trừu tượng khoa học (đúng đắn, nghiêm túc, không tùy tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn" [55, tr. 179]. Thứ ba: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp. Tư duy có tính gián tiếp vì tư duy phải dựa trên cơ sở các hình thức nhận thức cảm tính. Cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức nhận thức trực tiếp với sự vật. Nhờ tính gián tiếp, có khả năng tách rời nhất định với sự vật nên tư duy có sức mạnh to lớn trong sự phản ánh thế giới. Song điều đó cũng tạo nên khả năng dễ rơi vào ảo tưởng, thoát ly thực tế. Thứ tư: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, sáng tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy của con người là để chỉ đạo cho hành động của con người, nó có xu hướng "hướng ngoại", hiện thực hóa chứ không dừng lại ở trong đầu óc con người. V.I. Lênin cho rằng sự 11 chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối với lịch sử. Tư duy có thể dự báo tương lai, tạo ra những giả thuyết khoa học, những lý thuyết hết sức trừu tượng, tạo ra những mô hình lý tưởng cho hiện thực. Tất cả những đặc trưng trên đây của tư duy có liên hệ chặt chẽ với nhau, giả định lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau. Tư duy là lĩnh vực hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Nó vừa mang dấu ấn của chủ thể tư duy, vừa mang dấu ấn của nội dung khách thể được phản ánh trong tư duy. Tư duy bao giờ cũng gắn liền với các chủ thể nhất định, vì thế khi nói về tư duy thường người ta cũng quan tâm đến năng lực và trình độ tư duy của các chủ thể. Năng lực tư duy là khả năng nhận thức và khái quát của chủ thể nhận thức. Đó là từ những hiện tượng, thuộc tính rời rạc, riêng lẻ của sự vật, hiện tượng, trong đầu óc chủ thể nhận thức diễn ra một quá trình với những thao tác tư duy nhằm trừu tượng hóa và khái quát hóa để nắm bắt được bản chất và các quy luật qui định sự tồn tại, phát triển của sự vật. Năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực nhận thức và vận dụng lý luận vào thực tiễn đời sống; ngoài ra năng lực tư duy của chủ thể hoạt động còn biểu hiện ở chỗ biết tổng kết kinh nghiệm, khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận và xây dựng mô hình lý luận mới phù hợp với sự vận động và phát triển của thực tiễn. Năng lực tư duy của chủ thể còn phụ thuộc cả vào yếu tố di truyền. gen di truyền quy định các kiểu thần kinh bẩm sinh của chủ thể. Nó là nhân tố vật chất tạo nên khí chất của con người. Chẳng hạn, khí chất hăng hái: loại này ứng với kiểu thần kinh mạnh, linh hoạt. Người có khí chất này thường nhận thức nhanh, phản ứng nhanh, tính tình vui vẻ, các mối quan hệ xã hội nhanh chóng, giao tiếp rộng rãi... Hay, loại khí chất bình thản, ứng với kiểu thần kinh cân bằng. Loại người này có nhận thức và phản ứng chậm hơn nhưng bình tĩnh, chín chắn, sâu sắc, có khả năng kiềm chế, tính tự chủ cao, biểu hiện tình cảm kín đáo, tác động vào mọi người một cách nhẹ nhàng theo kiểu "mưa dầm thấm lâu"... 12 Những người có một trong hai khí chất nói trên, phù hợp với công tác lãnh đạo, quản lý. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý thành đạt thường là người có một trong những kiểu thần kinh nhu vậy. Yếu tố di truyền bẩm sinh của cá nhân về hệ thần kinh và não bộ tạo nên sự khác biệt giữa cá nhân với cá nhân, chứa đựng những yếu tố sinh học tự tạo trong cuộc sống cá thể. Thế nhưng, đặc điểm di truyền, yếu tố gen có được bảo tồn ở thế hệ sau hay không, và nó thể hiện ở mức độ nào... còn là do hoàn cảnh sống, môi trường xã hội quyết định. Như vậy, hệ thần kinh, gen di truyền cũng như năng khiếu của cá nhân chỉ là tiền đề để hình thành năng lực, chứ không quy định trước sự phát triển của năng lực tư duy. Trong hoạt động và thông qua hoạt động của con người, tiền đề sinh học bẩm sinh mới được phát triển nhanh chóng, những yếu tố chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục được hoàn thiện thêm và cơ chế bù trừ sẽ hình thành để bù đắp những khuyết nhược điểm của mỗi cá nhân do yếu tố di truyền quy định. Chính vì lẽ đó, thiên hướng về hoạt động nào đó sẽ làm cho tư duy về lĩnh vực đó phát triển. Ví như, nếp sống trong môi trường gia đình và xã hội có truyền thống kinh doanh sẽ tạo ra thiên hướng của con người đối với lĩnh vực hoạt động này. Có thể coi đó là dấu hiệu của năng lực đang hình thành. Vậy, có thể khẳng định rằng, chính nhân tố xã hội quyết định tư duy của con người và tri thức là điều kiện để năng lực tư duy của chủ thể phát triển. Tri thức là vốn hiểu biết mà con người tích lũy được và năng lực tư duy sẽ làm tăng vốn hiểu biết của con người lên một cách nhanh chóng. Năng lực tư duy không tách rời trình độ tư duy. Khi nói về trình độ tư duy là nói về cấp độ, mức độ hay những khả năng xác định của tư duy. Đó là trình độ tư duy thấp và trình độ tư duy cao; đó là trình độ tư duy tiền khoa học và trình độ tư duy khoa học; đó là trình độ tư duy khoa học thấp và trình độ tư duy khoa học cao ... Trình độ tư duy như thế nào thường được biểu hiện qua các phương pháp tư duy. Trình độ tư duy thấp, kém khoa học thường bộc lộ ra ở phương pháp tư duy mang nặng tính chất kinh nghiệm, bề ngoài. Với trình độ tư duy 13 này, chủ thể nhận thức mới dừng lại mô tả bề ngoài các hiện tượng riêng lẻ, mới chỉ là tập hợp ghi nhớ các biểu hiện hình thức của sự vật; không biết gạt bỏ các yếu tố đơn lẻ, ngẫu nhiên, thứ yếu để nắm lấy những mối liên hệ, những thuộc tính bên trong của sự vật và hiện tượng. Còn trình độ tư duy lý luận là sự phản ánh hiện thực một cách gián tiếp bằng các phạm trù, nguyên lý, qui luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các hình thức tư duy để phân tích, tổng hợp và khái quát các tài liệu cảm tính, nhằm nắm bắt các thuộc tính, các mối liên hệ mang tính bản chất, các qui luật nội tại quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng. Về mặt loại hình tư duy triết học, trình độ phát triển cao nhất của tư duy là tư duy biện chứng duy vật. Nó là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng. Năng lực tư duy biện chứng là tổng hợp tất cả các phẩm chất của tư duy ở trình độ cao, là khả năng đưa ra những quyết định đúng đắn, hợp lý, kịp thời của chủ thể. Đó còn là khả năng lãnh đạo, quản lý tổ chức để biến quyết định thành hiện thực. 1.1.2. Bản chất và đặc điểm của tư duy biện chứng 1.1.2.1. Bản chất tư duy biện chứng Tư duy biện chứng đã được hình thành từ rất sớm ở trình độ tự phát, chất phác. Trong triết học phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ...) cổ đại không bàn trực tiếp về tư duy biện chứng, song đã có những yếu tố của tư duy biện chứng trong các học thuyết của họ. Trong triết học Trung Quốc, Lão Tử, Trang Tử, Huệ Thi là các triết gia điển hình có những tư tưởng biện chứng về tự nhiên, xã hội. Trong tác phẩm Đạo đức kinh của Lão Tử có những mệnh đề nổi tiếng như: "Đạo khả đạo, phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh" [130, tr. 33], "Thiên hạ vạn vật sinh ư Hữu, Hữu sinh ư Vô" [130, tr. 202], "Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị, Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn - vật. Vạn - vật phụ âm nhi bão dương, Xung khí dĩ vi hòa" [130, tr. 210], phản ánh thế giới khách quan luôn vận động, biến đổi khôn lường, những tư tưởng này đã diễn tả biện chứng của khách quan 14 kéo theo biện chứng của khái niệm. Tư tưởng của Lão Tử cũng có một số điểm giống với tư tưởng của Phật giáo trong quan niệm về vô thường. Phật giáo còn đặt vấn đề về luân hồi, nghiệp báo, nhân quả để diễn tả biện chứng của thế giới khách quan. Học thuyết Âm - Dương, diễn tả sự chuyển hóa, thống nhất của hai mặt đối lập: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hóa vô cùng. Còn trong thuyết Ngũ hành các yếu tố cơ bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nằm trong các quan hệ tương sinh, tương khắc... vừa gắn bó mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển, vừa xung khắc, hủy hoại, tiêu diệt nhau. Cùng với những thành tựu triết học biện chứng của các dân tộc phương Đông cổ đại, các nhà triết học cổ đại Hy Lạp đã hoàn thành hình thức lịch sử đầu tiên của tư duy biện chứng, ở trình độ cổ sơ, chất phác. Tính chất thô sơ trong tư duy biện chứng của người Hy Lạp biểu hiện một cách rõ ràng trong quan niệm của họ về vật chất nguyên thủy, vật chất đầu tiên, phát sinh từ những hiện tượng thiên hình vạn trạng có thể cảm biết được. Chẳng hạn, Hêraclít cho rằng: Vạn vật bắt nguồn từ lửa lại chuyển biến thành lửa và luôn luôn thay đổi hình thức tồn tại của nó. Ông là người đã nêu lên một luận điểm biện chứng nổi tiếng là người ta không thể tắm được hai lần trên cùng một dòng sông, bởi vì nước của dòng sông luôn chảy. Luận điểm đó nói lên sự vận động, biến đổi không ngừng của sự vật. Aristốt là đại diện xuất chúng của tư duy biện chứng cổ đại. Ông đã phát biểu tư tưởng biện chứng về sự phát triển của giới tự nhiên, về vật thể chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác, về sự chuyển biến từ khả năng thành hiện thực. Khi khảo sát hình thức và phạm trù của tư duy lý luận, ông đã nhấn mạnh một cách biện chứng mối liên hệ giữa khái niệm, nghĩa là sự phản ánh bằng khái niệm mối liên hệ lẫn nhau tồn tại trong thế giới khách quan. Song, Aristốt cũng như các bậc tiền bối của ông chưa vượt ra khỏi phạm vi quan niệm chung về giới tự nhiên. 15 Những phương pháp tư duy biện chứng thô sơ ấy phần lớn là tự phát và còn nhiều hạn chế. Tư duy đó chỉ có thể dùng để nhận thức bức tranh tổng quát thế giới, mà không thể dùng để nghiên cứu quá trình, hiện trạng và các sự vật riêng lẻ được. Tư duy này chỉ hạn chế trong bức tranh tổng quát của hiện thực xung quanh mà giác quan trực tiếp cảm thấy được, vì thế, không nêu ra được mâu thuẫn nội tại vốn có và sự phát triển của một quá trình nhất định. Do đó, quan niệm chung về mâu thuẫn, vận động và phát triển của tư duy biện chứng cổ đại có được dường như là do nhận thức trực quan mà có. Tư duy biện chứng như vậy đương nhiên không thể chiến thắng được tư duy siêu hình, thậm chí có lúc nó còn cùng tồn tại với siêu hình học trong những nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Ph. Ăngghen nhận xét như sau: Hình thức thứ nhất là triết học Hy Lạp. Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên... Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp. Đó chính là thiếu sót của triết học Hy Lạp, do đó mà sau này, nó buộc phải nhường chỗ cho những cách nhìn khác. Nhưng chính đó cũng là ưu điểm của nó so với tất cả các địch thủ siêu hình sau này của nó. Nếu về chi tiết, chủ nghĩa siêu hình là đúng hơn so với những người Hy Lạp, thì về toàn thể những người Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình [67, tr. 491]. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI, nhờ sự hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhờ sự phát triển của công nghiệp, thương nghiệp, thủ công nghiệp, khoa học tự nhiên phát triển nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực: thiên văn học, vật lý học, toán học và đã đạt được những phát minh quan trọng. Trong thời gian đó khoa học dần dần tích lũy được nhiều tài liệu thực tế, trong đó có cả những tài liệu về giới động thực vật. Điều đó giúp người ta có thể tiến hành phân loại động thực vật và nghiên cứu một cách có hệ thống. Trong 16

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net