Nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc ở miền nam trước năm 1975 (trường hợp các công trình của kim định)

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc ở miền nam trước năm 1975 (trường hợp các công trình của kim định)

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐOÀN NGUYỄN THÙY TRANG NGHIÊN CỨU BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975 (TRƯỜNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH CỦA KIM ĐỊNH) LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC MÃ SỐ: 60310640 TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐOÀN NGUYỄN THÙY TRANG NGHIÊN CỨU BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC Ở MIỀN NAM TRƯỚC NĂM 1975 (TRƯỜNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH CỦA KIM ĐỊNH) CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC MÃ SỐ: 60310640 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN HIỆU HỘI ĐỒNG CHẤM LUẬN VĂN THẠC SĨ: 1. PGS. TS VÕ VĂN SEN Chủ tịch Hội đồng 2. TS. NGUYỄN ĐỨC TUẤN Thư ký Hội đồng 3. PGS. TS. HUỲNH QUỐC THẮNG Phản biện 1 4. PGS. TS. PHAN AN Phản biện 2 5. TS. HUỲNH TRỌNG HIỀN Ủy viên Hội đồng TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các nội dung, số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Học viên Đoàn Nguyễn Thùy Trang ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học, tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô của Khoa Văn hóa học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – đã nhiệt tâm truyền thụ kiến thức, giúp tôi có nền tảng cơ bản thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin chân thành gởi đến Thầy Nguyễn Văn Hiệu lời cảm ơn sâu sắc vì Thầy đã định hướng nghiên cứu và tận tình chỉ dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn. Sau cùng, xin cảm ơn những người bạn và gia đình đã nhiệt tình giúp đỡ và ủng hộ tôi trong suốt thời gian học cao học. Học viên Đoàn Nguyễn Thùy Trang iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................1 2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................1 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................1 3.1. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................1 3.2. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................2 4. Lịch sử vấn đề .....................................................................................................2 4.1. Từ trước đến năm 1975.................................................................................2 4.2. Từ sau năm 1975...........................................................................................3 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ................................................................6 5.1. Ý nghĩa khoa học ..........................................................................................6 5.2. Ý nghĩa thực tiễn...........................................................................................6 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ..........................................................7 6.1. Phương pháp .................................................................................................7 6.2. Nguồn tư liệu ................................................................................................7 7. Bố cục của luận văn .............................................................................................7 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ............................................................................................................................9 1.1. Cơ sở lý luận .....................................................................................................9 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc ..........................................................9 1.1.2. Một số lý thuyết nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc .............................11 1.2. Tổng quan về đối tượng nghiên cứu ...............................................................19 1.2.1. Bối cảnh và yêu cầu của việc nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc ở miền Nam trước năm 1975 .................................................................................................19 1.2.2. Trường hợp Kim Định .............................................................................21 CHƯƠNG 2. QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KIM ĐỊNH VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC ........................................27 2.1. Quan niệm của Kim Định về văn hóa và bản sắc văn hóa .............................27 iv 2.1.1. Quan niệm của Kim Định về văn hóa ......................................................27 2.1.2. Quan niệm của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc ............................30 2.2. Quan điểm tiếp cận của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc .....................31 2.2.1. Quan điểm liên ngành ..............................................................................31 2.2.2. Tiếp cận hệ thống – cấu trúc ....................................................................36 2.2.3. Tiếp cận huyền thoại ................................................................................43 2.3. Phương pháp nghiên cứu của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc ............49 2.3.1. Phương pháp mô tả - thống kê .................................................................49 2.3.2. Phương pháp so sánh ...............................................................................53 2.3.3. Phương pháp phân tích cấu trúc ..............................................................56 2.3.4. Phương pháp huyền sử.............................................................................62 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA KIM ĐỊNH VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM VÀ NHỮNG NHẬN ĐỊNH .....................................73 3.1. Về cơ sở hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam .........................73 3.1.1. Văn minh nông nghiệp.............................................................................73 3.1.2. Vai trò của giao lưu văn hóa ....................................................................77 3.2. Về đặc trưng, bản sắc .....................................................................................82 3.2.1. Mềm mại, uyển chuyển, hướng tới thuận hòa .........................................83 3.2.2. Trọng nữ ..................................................................................................89 3.2.3. Dân quyền và bình sản .............................................................................91 KẾT LUẬN ...............................................................................................................94 THƯ MỤC TÀI LIỆU ..............................................................................................95 I. TƯ LIỆU KHẢO SÁT .....................................................................................95 II. TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................96 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đến nay, mảng nghiên cứu ở miền Nam trước năm 1975 về bản sắc văn hóa dân tộc hầu như chưa được quan tâm nhiều. Việc tìm hiểu mảng nghiên cứu này sẽ giúp ta hiểu thêm về sinh hoạt học thuật của miền Nam trong giai đoạn này, đồng thời hiểu được những đóng góp cũng như hạn chế của một số nhà nghiên cứu có nhiều ảnh hưởng. Trong số các nhà nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc ở miền Nam trước năm 1975, đáng chú ý có Kim Định. Các nghiên cứu của ông về văn hóa dân tộc ngay từ thời ông mới viết đã tạo ra sự quan tâm của xã hội và giới học thuật, cả ở trong và ngoài nước với nhiều ý kiến khen, chê ngược chiều nhau, nhưng đến nay chưa được phân tích, đánh giá một cách toàn diện. Mặt khác, đến nay cũng chưa có một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu đầy đủ về Kim Định. Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ chuyên ngành văn hóa học, chúng tôi hướng đến nghiên cứu một trường hợp cụ thể là Kim Định, qua đó góp phần tìm hiểu vấn đề nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở miền Nam trước năm 1975. 2. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung: tìm hiểu giá trị các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc của nhà nghiên cứu Kim Định. Mục tiêu cụ thể: luận văn được tiến hành nhằm chỉ ra quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, từ đó đánh giá khách quan những đóng góp cũng như hạn chế của Kim Định, qua đó góp phần tìm hiểu việc nghiên cứu văn hóa dân tộc ở miền Nam trước năm 1975. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam qua công trình nghiên cứu của Kim Định. 2 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi của đề tài là các công trình nghiên cứu về văn hóa dân tộc của Kim Định xuất bản trước năm 1975. 4. Lịch sử vấn đề Từ những năm 1960, các quan điểm và công trình của Kim Định ngay từ khi công bố đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trên bình diện đánh giá quan điểm tiếp cận, phương pháp nghiên cứu và phát hiện của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc, dù chưa có một công trình chuyên biệt nào nhưng đã có nhiều nhận xét sâu sắc. Đặc biệt, những công trình của Kim Định đã tạo ra hai luồng ý kiến khen và chê trái ngược nhau, với nhiều lý lẽ và bằng chứng mạnh mẽ để ủng hộ hoặc chống lại ông. Chúng tôi tạm chia thành hai giai đoạn: từ trước đến năm 1975 và từ sau 1975. 4.1. Từ trước đến năm 1975 Trước năm 1975, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến các quan điểm của Kim Định. Trong các nghiên cứu của mình, Kim Định cho rằng giống người Việt là một sắc tộc đã đến ăn ở trên khắp nước Tàu trước giống người Hoa. Người Việt từng là chủ nhân không chỉ của nước Tàu, mà còn là của phần lớn các giá trị văn hóa tinh thần quan trọng đã bị người Hán dần dần thâu tóm hết là Nho giáo và Ngũ kinh. Theo cách nói của Kim Định, tộc Việt đã xây nền văn hóa minh triết nhân bản rồi người Hoa học theo và chiếm đoạt. Chính Kim Định cũng thừa nhận rằng triết thuyết mà ông đưa ra là “quá mới mẻ” nên “khiến một số học giả bỡ ngỡ”. Ông cho rằng đó là “một chủ đề quá táo bạo, nên có người cho rằng người Tàu sẽ không thèm cãi mà chỉ cười, cười khinh. Còn học giả ta vì một vài vị mới nói ngầm là ái quốc quá khích, là chủ quan… ngoại giả còn chờ xem” [Kim Định 1973 (a): trang 1]. Nhưng một số học giả khác đã lên tiếng phê bình. Ngay từ khi các quan điểm của Kim Định được công bố, Bình Nguyên Lộc phê phán quan điểm của Kim Định về nguồn gốc tộc Việt: “Giáo sư Kim Định tuyên bố không dựa vào sử Tàu thường bóp méo sự thật, cũng không dựa vào khoa khảo tiền sử mơ hồ nhưng có lúc ông lại dựa vào quyển sách “Tàu Cổ sử 3 nhân vi” của Mông Văn Thông để nói rằng Tàu gặp Viêm tộc trước nhứt mà Viêm là Việt + Miêu”. Dựa vào các chứng cứ khảo cổ học, Bình Nguyên Lộc cho rằng: “Viêm tộc theo quan niệm của giáo sư Kim Định, không bao giờ có”. Bình Nguyên Lộc cũng đã phê phán các phương pháp Kim Định sử dụng để nghiên cứu văn hóa Việt Nam: “Kim Định đã lập ra một triết thuyết, triết thuyết ấy dựa trên sử mà đó là sử riêng của giáo sư chớ không phải của Tây hay của Tàu”. Bình Nguyên Lộc cho rằng: “Truyền thuyết chắc có đúng sự thật phần nào và giáo sư Kim Định đã cho truyền thuyết một địa vị lớn lao quá sức trong sách của ông” [Bình Nguyên Lộc: website]. 4.2. Từ sau năm 1975 Sau năm 1975, Kim Định gần như bị lãng quên ở trong nước. Từ khi đổi mới, một số nhà nghiên cứu bắt đầu có sự quan tâm trở lại nhất định đến Kim Định, nhưng vẫn tồn tại hai luồng ý kiến trái ngược nhau. Trần Mạnh Hảo trong “Phê bình phản phê bình” đưa ra những đánh giá có tính phê phán về phương pháp nghiên cứu của Kim Định: "Đó là phương pháp luận phi khoa học mà chúng tôi gọi là phương pháp truyền thuyết luận, thần thoại luận, ngữ nghĩa luận, linh cảm luận được góp chung trong cái rọ phiếm luận” [Trần Mạnh Hảo: trang 272]. Trần Ngọc Vương đã đề cập đến Kim Định khi bàn đến các hướng tiếp cận khác nhau của các nhà nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc. Một trong những hướng đó là “xác định một cơ tầng văn hoá Ðông Nam Á cổ đại trên một địa vực rộng lớn hơn nhiều bao gồm cả lưu vực sông Dương Tử trở xuống phía Nam. Rồi bằng những thao tác biến hoá trên chữ nghĩa, biến vùng Nam Trung Quốc thành Bách Việt, thành Âu Lạc, từ đó thành Việt Nam”. Trần Ngọc Vương nhận xét: “Một cách nghiêm khắc thì lối ngoại suy kiểu đó chỉ xứng đáng một sự nhạo báng không hơn không kém”. Ông cho rằng linh mục Lương Kim Ðịnh “đã tuyên bố thẳng thừng lý do của một sự gian lận logic” trong cuốn “Cơ cấu Việt Nho”: "Muốn tích cực và đạt hiệu quả chân thực thì thế nào nước ta cũng phải có một nền văn hoá công dân để làm nhân tố thống nhất. Mọi người Việt Nam bất cứ theo tôn giáo nào cũng phải đứng vào mặt trận văn hoá công dân ấy. Có vậy mới trông dàn hoà các 4 tôn giáo cũng như nối kết các người trí thức thị dân với đại chúng thôn dân… Như thế thì đối với chúng ta vấn đề văn hoá dân tộc không còn phải là vấn đề sống còn, đó chính là vận hệ của nước" [Kim Ðịnh 1972: trang 25]. Trần Ngọc Vương viết: “Có lẽ không cần bình luận gì thêm! Chỉ tiếc và lo rằng hơn 20 năm sau khi Kim Ðịnh công bố "sứ mệnh" ấy của ông ta, lại có người thừa kế hào hứng một con đường quàng xiên như vậy” [Trần Ngọc Vương: trang 183-193]. Trong “Từ điển văn học, Bộ mới”, lần đầu tiên Nguyễn Huệ Chi đưa vào mục từ “Kim Định”. Nguyễn Huệ Chi chú ý đến Kim Định với tư cách là linh mục Thiên Chúa giáo, một người nghiên cứu triết học và văn hóa. Nguyễn Huệ Chi cho rằng Kim Định đã nêu nổi bật nguồn gốc Nho giáo trong tiến trình nghiên cứu. Ông nhận xét cuốn “Cửa Khổng” là tất cả tư tưởng Kim Định, nhưng không đề cập gì đến triết lý An Vi của Kim Định [Nguyễn Huệ Chi: trang 754 – 758]. Hà Văn Thùy trong bài viết “Xác lập cơ sở khoa học cho học thuyết Kim Định” cho rằng Kim Định là “một thiên tài dũng cảm đơn thương độc mã xung trận đòi lại cho tộc Việt nền văn hóa vĩ đại bị chiếm đoạt”; Kim Định “đã phát hiện ra văn hóa Việt Nho cội nguồn của người Việt”. Một mặt Hà Văn Thùy nhìn nhận đóng góp của Kim Định là “tìm ra cốt lõi An Vi của đạo Việt” nhưng mặt khác cho rằng Kim Định đã sử dụng con đường “phiêu lưu” khi tiến hành “giải mã những truyền thuyết, huyền sử” [Hà Văn Thùy: website]. Tháng 7/2012, trong một bài viết nhân buổi tọa đàm tưởng niệm Kim Định tại Hà Nội, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm đã đưa ra những nhận xét về nhiều mặt đối với Kim Định: về số lượng công trình, những thành công, những đóng góp cũng như những sai lầm của Kim Định, sự ảnh hưởng của Kim Định đối với xã hội… Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Kim Định người đầu tiên làm nên một hiện tượng, gây nên một phong trào” trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Trần Ngọc Thêm nhận xét “thành công và đóng góp lớn về mặt khoa học của Kim Định là người đi tiên phong trong việc tìm kiếm những giá trị tinh thần đặc thù của dân tộc”. Những nhận định do Kim Định đề xuất được Trần Ngọc Thêm xem là “rất mạnh bạo, rất tiên phong, và, tuy còn chứa nhiều sai lầm mang tính bộ phận, nhưng về cơ bản và 5 trên những nét tổng thể thì có thể nói là đúng hướng”, nhất là những nhận xét về vai trò và đóng góp của văn hóa Bách Việt đối với văn hóa Trung Hoa, “đã góp công khai phóng, giải thoát người Việt khỏi thứ tư duy nô lệ coi cái gì cũng từ Trung Hoa mà ra”. Tuy nhiên, Trần Ngọc Thêm cho rằng Kim Định có 3 điểm yếu, đó là “sa vào tư biện”, “có tính cực đoan”, “để cho các công trình nghiên cứu của mình mang màu sắc chính trị” [Trần Ngọc Thêm: website]. Ở nước ngoài, cũng có một số nhà nghiên cứu quan tâm đến Kim Định. Trần Văn Đoàn của Đại học Đài Loan tuy có khẳng định triết học của Kim Định, song cũng phê bình tính chất “thiếu nghiêm túc và quá lãng mạn” [Trần Văn Đoàn: website] trong nền triết học An Vi mà Kim Định đưa ra. Về cách tiếp cận của Kim Định, Nguyễn Gia Kiếng nhận xét: “Cách tiếp cận văn hóa Việt Nam của Kim Định rất phiêu lưu bởi vì các di tích lịch sử và văn hóa của chúng ta quá ít ỏi để có thể là một thông điệp sáng sủa và chắc chắn. Chúng ta phải suy diễn rất nhiều mà suy diễn lúc nào cũng chủ quan và dễ sai lầm…” [Nguyễn Gia Kiểng: website]. Lý luận của Kim Định để giải thích về cổ sử Việt - Trung dựa trên một phương pháp mà ông gọi là “huyền sử”. Nhà sử học người Việt sống ở Mỹ, Tạ Chí Đại Trường, trong bài viết “Về “huyền sử gia” Kim Định và các chi, bàng phái “huyền sử học” Việt Nam?” cũng đưa ra nhiều ý kiến không đồng tình về phương pháp nghiên cứu của Kim Định trên các phương diện lịch sử, khảo cổ: “Tuy đề ra “phương pháp” trên nhưng ông cũng theo thời mới mà suy đoán mở rộng, bằng vào các sách vở viết về lịch sử Trung Quốc, về khảo cổ học Trung Quốc” [Tạ Chí Đại Trường: website]. Tương tự, Cung Đình Thanh ở Australia cũng không tán thành phương pháp nghiên cứu của Kim Định: "Dù vô cùng ngưỡng mộ giáo sư Kim Định và đồng ý với ông về một số điểm trong vấn đề nguồn gốc văn hóa Việt Nam nói chung và tư tưởng Việt nói riêng, nhưng chúng tôi không đồng ý về phương pháp ông sử dụng". Về thao tác nghiên cứu, Cung Đình Thanh nhận xét Kim Định còn thiếu chặt chẽ trong thao tác nghiên cứu mà bất cứ công trình khoa học nào cũng cần phải có: 6 “Kim Định đã viết nhiều mà lại bất cần đến logic, cũng chẳng để ý đến việc dẫn chứng những sách tham khảo, dù ai cũng biết là ông đọc thiên kinh vạn quyển" [dẫn theo Vũ Khánh Thành: website]. Tham khảo các nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy đây là nguồn tư liệu khoa học rất có giá trị, cung cấp kiến thức nền tảng và gợi mở những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Chẳng hạn, để đánh giá đúng mức những đóng góp cũng như hạn chế của Kim Định về nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc, có thể sử dụng các lý thuyết nghiên cứu văn hóa học như một nền tảng để xem xét quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu của ông, trong bối cảnh chính trị xã hội và học thuật của miền Nam trước năm 1975 và trong tình hình chung về nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc ở Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975. Tiếp nối công việc của những người đi trước, trong luận văn này, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát một cách hệ thống các nghiên cứu của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. 5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn 5.1. Ý nghĩa khoa học Luận văn chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế của Kim Định trong việc nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc. Qua trường hợp Kim Định, luận văn góp phần vào việc hiểu thêm tình hình nghiên cứu bản sắc văn hóa ở miền Nam trước năm 1975. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Góp phần vào hướng tìm hiểu phương pháp luận nghiên cứu bản sắc văn hóa. Luận văn giúp hiểu thêm về một giai đoạn trong lịch sử nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, luận văn là tài liệu phục vụ cho việc đọc tham khảo đối với những người quan tâm tìm hiểu về Kim Định cũng như về đóng góp của ông đối với việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam. 7 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 6.1. Phương pháp 6.1.1. Quan điểm tiếp cận Các công trình nghiên cứu của Kim Định về bản săc văn hóa dân tộc được chúng tôi tiếp cận chủ yếu trên một số quan điểm sau: Tiếp cận từ quan điểm lịch sử - cụ thể: đặt các công trình nghiên cứu của Kim Định trong bối cảnh lịch sử xã hội và học thuật cụ thể của miền Nam trước năm 1975 nhằm làm rõ quan niệm của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc. Tiếp cận từ góc độ chuyên ngành văn hóa học, trong đó đặc biệt chú ý đến quan điểm liên ngành. Tiếp cận hệ thống – cấu trúc: phân tích các nghiên cứu của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc như một hệ thống để nhận diện quan điểm học thuật của ông: Đặt các nghiên cứu của Kim Định trong bối cảnh học thuật trước năm 1975. Xem xét các công trình nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc của Kim Định trong toàn bộ chỉnh thể các nghiên cứu của ông từ đó tìm hiểu hệ thống các quan điểm tiếp cận và phương pháp nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc trong các công trình nghiên cứu của Kim Định. Đồng thời tìm ra cấu trúc bên trong của đặc trưng bản sắc văn hóa dân tộc theo quan niệm của Kim Định. 6.1.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp định tính và định lượng, trong đó chủ yếu là định tính nhưng có chú ý đến phương pháp thống kê. - Phương pháp so sánh nhằm làm rõ những đóng góp và hạn chế của Kim Định khi nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc. 6.2. Nguồn tư liệu Luận văn khảo sát chủ yếu những công trình nghiên cứu của Kim Định xuất bản ở miền Nam trước năm 1975. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn có 3 chương. Chương 1 sẽ xác lập cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho đề tài. Chương 2 nghiên cứu quan điểm tiếp cận 8 và phương pháp nghiên cứu của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc. Chương 3 phân tích những nhận định và kết luận của Kim Định về bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó đánh giá những đóng góp và hạn chế của ông trong nghiên cứu về bản sắc văn hóa dân tộc. 9 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc Từ xưa đến nay, có rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Điều này cho thấy tính đa dạng, phong phú và tính luôn biến đổi của văn hóa. E.B. Tylor (1871) đã định nghĩa về văn hóa trong cuốn “Văn hóa nguyên thủy” như sau: “Văn hóa, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó, là một toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên xã hội” [Dẫn theo Trần Quốc Vượng 1996: trang 52]. Với định nghĩa này, Tylor nhấn mạnh đến ba vấn đề: văn hóa là một phức hợp nhiều mặt; văn hóa là do con người tạo nên; và văn hóa mang tính xã hội. Từ định nghĩa văn hóa của E.B. Tylor - được xem là định nghĩa đầu tiên - đến nay đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa với nhiều góc nhìn, nhiều cách hiểu khác nhau. F. Boas định nghĩa “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau” [F. Boas: trang 149]. Bất kể cá nhân con người nào cũng thuộc sản phẩm của một nền văn hóa cụ thể mà ở đó họ đang sống. Sự khác nhau giữa con người được giải thích bằng tính đặc thù văn hóa của họ. “Khái niệm văn hóa có thể được dùng theo nghĩa hẹp hoặc theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hóa dùng để chỉ mỹ thuật, văn chương, âm nhạc và triết học. Theo nghĩa rộng, văn hóa dùng để chỉ phức thể các giá trị, phong tục, tư tưởng, các thiết chế chính trị xã hội – những thứ xác định con người và 10 những mối quan hệ trong một xã hội cụ thể” [Denise Dunse: website]. Theo nghĩa này, văn hóa đóng vai trò chủ yếu trong việc xác định ý niệm về cộng đồng và tương lai của cộng đồng. Trong luận văn này, chúng tôi dựa vào một vài cách hiểu phù hợp với đối tượng nghiên cứu cụ thể. Trước hết, đó là cách hiểu văn hóa theo nghĩa rộng, là toàn bộ hoạt động của con người với tư cách là con người xã hội như định nghĩa của Tylor đã dẫn trên; thứ hai là cách hiểu văn hóa là những gì giúp phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác như định nghĩa của UNESCO năm 1970 được nhiều nhà nghiên cứu công nhận: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” [Tạp chí “Người đưa tin UNESCO”, số 11-1989, trang 7]. Bản sắc văn hóa nảy sinh từ văn hóa. Denise Dunse cho rằng: “Bản sắc có thể được xác định bởi tầng lớp, giới tính, chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ hoặc là sự liên kết của toàn bộ những nhân tố khác nhau. Trong thời hiện đại, thường thì nó được xác định bởi chủ nghĩa dân tộc. Ở châu Âu, bản sắc có nguồn gốc từ những gắn kết về tộc người, dựa trên sự chia sẻ ngôn ngữ chung, lịch sử chung và huyền thoại chung” [Chris Barker: trang 254]. Bản sắc văn hóa của một dân tộc thường được hiểu là bản sắc của dân tộc đó. Nói đến bản sắc văn hóa của một dân tộc là nói đến những nét đặc trưng của văn hóa dân tộc đó, là kết quả của cách nhìn từ bên trong (inside), nghĩa là những gì chúng ta nhìn nhận bản thân; hay theo cách nhìn từ bên ngoài (outside), nghĩa là những gì người khác nhìn nhận chúng ta. Vì vậy, một cách khái quát, “khám phá bản sắc nghĩa là tìm hiểu: chúng ta nhìn nhận bản thân như thế nào và những người khác nhìn thấy chúng ta như thế nào” [Chris Barker: trang 298]. Tiếp cận từ góc độ giá trị, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Bản sắc dân tộc – đó là những giá trị đặc sắc cơ bản được lưu truyền trong lịch sử, là cái tinh hoa bền vững của nó [dẫn theo Lê Ngọc Trà: trang 293]. Nhà nghiên cứu Hà 11 Văn Tấn cho rằng: “Bản sắc văn hóa dân tộc là hệ thống các giá trị văn hóa mà mỗi dân tộc chấp nhận” [Hà Văn Tấn 1996: trang 153]. Cũng quan niệm bản sắc văn hóa dân tộc là những “giá trị truyền thống”, nhưng nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu nhìn nhận có mối quan hệ giữa tính phổ quát và tính đặc thù trong nghiên cứu bản sắc văn hóa một dân tộc [Trần Văn Giàu: trang 98]. Theo ông, phải trên cơ sở so sánh giữa cái phổ quát và cái đặc thù, giữa các giá trị của dân tộc này với các giá trị của dân tộc khác và nhấn mạnh vào những chỗ khác nhau có thật để góp phần khẳng định thêm bản sắc dân tộc trên các lĩnh vực văn hóa tinh thần [Trần Văn Giàu: trang 143]. Có phân biệt như vậy mới nổi bật đặc trưng của bản sắc văn hóa dân tộc. Đây là quan điểm tiếp cận phù hợp và quan điểm khách quan khoa học, tránh được sự so sánh hơn thua, lấy tộc người của mình làm trung tâm. Mặt khác, bản sắc văn hóa dân tộc theo Chu Quang Trứ “không phải là những gì riêng của dân tộc mình, mà nó là tất cả những nét đặc sắc của dân tộc tạo thành trong trường kỳ lịch sử, trong cuộc giao lưu văn hóa phức tạp, để kiên định một bản lĩnh mà tồn tại đĩnh đạc” [Chu Quang Trứ: trang 111]. Như vậy, có hai cách hiểu: bản sắc là căn tính và bản sắc là đặc trưng. Ở đây chúng tôi chọn cách hiểu của nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam: bản sắc là đặc trưng, là những nét giúp phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác, bởi vì đây cũng là cách hiểu của Kim Định thể hiện qua các công trình nghiên cứu của ông. Chúng tôi nhận thấy ông nghiên cứu theo hướng tìm nét khu biệt Việt và Hán. 1.1.2. Một số lý thuyết nghiên cứu bản sắc văn hóa dân tộc 1.1.2.1. Cấu trúc luận Người đặt nền móng cho cấu trúc luận - Ferdinand de Saussure (1857-1913) - đã chủ trương một phương pháp luận tập trung vào tính hệ thống của ngôn ngữ được biểu thị bằng những ký hiệu gồm cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Trên cơ sở ký hiệu học của F. de Saussure, năm 1958, Claude Lévi- Strauss đã cho ra đời Nhân học cấu trúc (Structural Anthropology) từ những tương quan giữa các thành tố văn hóa khác nhau thông qua cấu trúc của chúng. L. Strauss cho rằng, những hiện tượng văn hóa, các nền văn hóa không đồng nhất, nhưng 12 chúng có "khuôn mẫu nền tảng" chung có tính cách xuyên lịch sử. Chẳng hạn, ông cho rằng quan hệ thân tộc là một cấu trúc văn hóa có tính chất phổ biến của mọi nền văn hóa trên thế giới. Không có nền văn hóa nào là không có hình thức của quan hệ thân tộc. Theo ông, mỗi hình thái văn hóa là một tập hợp các ký hiệu tùy tiện, vấn đề là phải tìm được cấu trúc của các ký hiệu ấy, tức là cách những ký hiệu ấy (những yếu tố văn hóa) liên hệ với nhau như thế nào để hình thành nên một hệ thống toàn diện. Luận thuyết mà L. Strauss muốn chứng minh là: Người cổ sơ không phải là không có luận lý và tư tưởng, chỉ có điều họ diễn tả điều đó khác người văn minh mà thôi. Ông cho rằng không phải nền văn minh đương đại là cao hơn nền văn minh dã man, mà đó chính là sự thay đổi các thang giá trị khác nhau. Vì vậy, hủy diệt nền văn minh hoang dã là một hình thức hủy diệt chính chúng ta. L. Strauss nghiên cứu thần thoại hay nghi lễ của các nền văn hóa nhằm mục đích cuối cùng là làm sáng tỏ một điều: tư duy con người mới chính là chủ thể của văn hóa. Văn hóa mang tính đặc thù là do thể hiện những khả năng logic của tư duy con người. Ngoài ra, giữa những cộng đồng người khác nhau có những điểm tương đồng và cả những điểm khác biệt trong “ý thức” của cộng đồng thông qua ngôn ngữ. Từ đó Lévi-Strauss cho rằng đồng nhất văn hóa, đồng nghĩa với đánh mất bản sắc, dẫn đến hủy diệt tính nhân văn. Mặc dù nhấn mạnh vào hình thức hơn là nội dung, L. Strauss cũng nhận ra tầm quan trọng của các hiện tượng cụ thể trong nghiên cứu khoa học. Các hiện tượng cụ thể là cần thiết để đánh giá các hệ thống cấu trúc cơ bản. Tư duy của con người hợp với các cấu trúc vốn có trong thế giới tự nhiên khách quan. Ông tin rằng cơ chế hoạt động của tư duy cơ bản diễn ra như là những cặp đối lập tồn tại trong thế giới khách quan, chẳng hạn như ngày và đêm, đen và trắng, cuộc sống và cái chết, tinh thần và thể xác… Như vậy, từ bản chất nhị phân của ngôn ngữ theo lý thuyết của Saussure, Lévi-Strauss đã mở rộng quan niệm về tính chất hai mặt để nghiên cứu thần thoại, gia đình, ẩm thực, và các hiện tượng văn hóa khác. Ông tin rằng sự đối lập giữa tự nhiên và văn hóa là vấn đề đáng quan tâm của mọi người. Nhìn chung, tư duy và 13 phương pháp luận của Lévi-Strauss được Appebaum Herbert (1987) tổng kết ngắn gọn lại như sau: Quan niệm cấu trúc tiềm ẩn bên dưới các hình thức bên ngoài; Bản chất nhị phân của hiện tượng và tư duy; Nguyên lý trao đổi trong các quan hệ xã hội; Tìm kiếm quy luật phát triển chung [Nguyễn Thị Hiền: trang 597]. Như vậy, mỗi nền văn hóa là một hệ thống thì nó sẽ có các khuôn mẫu riêng, tìm được những khuôn mẫu đó thì sẽ rõ bản sắc của nền văn hóa đó. Đó cũng là lý do để Kim Định vận dụng cấu trúc luận của Lévi-Strauss vào các công trình của mình. 1.1.2.2. Tiếp cận huyền thoại Donna Rosenberg, trong cuốn Truyện cổ dân gian, huyền thoại và truyền thuyết: một phối cảnh thế giới (Folktales, Myths and Legends: A World Perspective) đã đưa ra định nghĩa: “Huyền thoại (myth) là câu chuyện thiêng từ quá khứ. Nó có thể giải thích nguồn gốc của vũ trụ và cuộc sống hoặc diễn đạt những giá trị đạo đức của nền văn hoá của nó trong những thuật ngữ nhân thế. Huyền thoại liên quan với những năng lực điều hành thế giới con người và quan hệ giữa những năng lực ấy với con người” [Dẫn theo Phan Thu Hiền: báo cáo khoa học]. Trong nghĩa rộng hơn, người ta nói đến huyền thoại như những tác phẩm được sáng tạo với tư duy huyền thoại, kiểu tư duy tiền logic và thần bí, mang tính ẩn dụ, biểu trưng, tái hiện những quan niệm khái quát, trừu tượng trong hình thức cụ thể cảm tính. Trong các cộng đồng xã hội nguyên thủy, hệ huyền thoại là công cụ, là phương thức cơ bản của việc hiểu biết thế giới. Hệ huyền thoại là sự cấu thành của những tư tưởng cổ xưa nhất của các cộng đồng người. Trong huyền thoại, có sự pha trộn, đan kết những yếu tố phôi thai của tôn giáo, triết học, khoa học và nghệ thuật. Về sau, khi các hệ tư tưởng khác nhau xuất phát từ hệ huyền thoại có tính nguyên hợp đó được tách biệt và phát triển riêng rẽ, thì huyền thoại vẫn còn giữ được vai trò quan trọng của nó trong lịch sử văn hóa, không chỉ với ý nghĩa là một di sản của thế giới quan nguyên thủy và của hình thức kể chuyện cổ xưa, mà một số đặc trưng của sự nhận thức huyền thoại có thể vẫn được bảo tồn lâu dài trong nhận thức của 14 nhân dân và các hình thái ý thức xã hội khác như triết học, khoa học, đặc biệt là tôn giáo và văn học nghệ thuật [Chu Xuân Diên: website]. Có thể thấy, mọi nền văn hoá đều hình thành, duy trì, phát triển qua thời gian những huyền thoại bao gồm những câu chuyện linh thiêng về lịch sử, tôn giáo, những người anh hùng. Những câu chuyện này có ảnh hưởng lớn đối với một nền văn hoá, đó là lý do khiến chúng tồn tại lâu dài, đôi khi hàng ngàn năm, thâm nhập, chi phối nhiều phương diện văn hóa. Khi nghiên cứu huyền thoại, nhà nhân học người Anh James George Frazer, nhà nhân học người Anh gốc Ba Lan Malinowski… chú trọng đến các nghi lễ và chức năng của chúng. Theo đó, về nguyên tắc, huyền thoại và nghi lễ trong các nền văn hóa nguyên thủy và cổ đại hợp thành một thể thống nhất (về thế giới quan, về chức năng, về cấu trúc); trong xã hội nguyên thủy, huyền thoại không có nội dung lý luận, không phải là một phương tiện nhận thức khoa học hoặc tiền khoa học, huyền thoại chỉ thực hiện một chức năng thực tiễn đơn thuần là duy trì truyền thống, duy trì sự liên tục của nền văn hóa bộ lạc, bằng cách hướng tới cái thực tại siêu nhiên của những sự kiện tiền sử. Trong khi đó, nhà triết học người Đức E. Cassirer xây dựng lý thuyết biểu trưng về huyền thoại. Ông phát triển quan niệm coi hoạt động tinh thần của con người (trong đó tiêu biểu nhất là sự sáng tạo huyền thoại với tư cách là dạng cổ xưa nhất của hoạt động ấy) như là một hoạt động mang tính cách biểu trưng. Nhà tâm lý học người Thụy Sĩ C. G. Jung thì đề xuất lý thuyết về những biểu tượng nguyên sơ (archetype bằng mẫu gốc, cổ mẫu, siêu mẫu…) và quan niệm các biểu tượng nguyên sơ được chứa đựng trong lớp vô thức tập thể là những hiện tượng gần gũi với cái thường được gọi là các môtip huyền thoại; do đó huyền thoại không đơn thuần là những phỏng dụ về các sự kiện vật thể mà đằng sau nó trong một mức độ nào đó là “đời sống tinh thần của các bộ lạc nguyên thủy”. Huyền thoại hướng về lớp sâu thẳm của tâm lý tập thể như là về cội nguồn của sự tạo lập đầu tiên của vũ trụ con người, về cái khởi nguyên tinh thần, về sự trải nghiệm tập thể cái nguồn gốc chung, cái tổng khởi nguyên.

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net