Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh lâm đồng

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ NGỌC THÀNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ NGỌC THÀNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LÂM ĐỒNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số:8380102 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.VŨ THƯ HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Tác giả luận văn Vũ Ngọc Thành MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..................................................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự ................................... 7 1.2. Khái quát về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ................................. 14 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự ........................................................................................................................... 24 Kết luận Chương 1 ................................................................................................ 29 Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG .....................................................30 2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội và yếu tố phát sinh các vụ việc về thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ................................................................................................. 30 2.2. Thực trạng tổ chức thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................ 33 2.3. Thực trạng hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ........................ 36 2.4. Đánh giá chung về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................................................................................................................... 43 Kết luận Chương 2 ................................................................................................ 58 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH LÂM ĐỒNG ..59 3.1. Quan điểm đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự................... 59 3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng ............................................................................................................. 66 Kết luận Chương 3 ................................................................................................ 77 KẾT LUẬN ..............................................................................................................78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CHA : Chấp hành viên THA : Thi hành án THADS : Thi hành án dân sự TTV : Thẩm tra viên TPL : Thừa pháp lại TAND : Tòa án nhân dân TCCB : Tổ chức cán bộ UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Kết quả thi hành án về việc (từ năm 2014 – 2018) .................................. 39 Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về giá trị (từ 2014 – 2018) ....................................... 39 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước nhằm đưa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ra thi hành trên thực tế. Trong hoạt động tư pháp, nếu mục đích của thi hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Sau hơn hai mươi lăm năm, kể từ khi tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ chuyển từ Tòa án sang Chính phủ quản lý (tháng 7 năm 1993), hệ thống thi hành án dân sự đã được hình thành, từng bước phát triển, hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và ngày càng được củng cố, xác định rõ hơn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao trong từng giai đoạn cụ thể. Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp trong giai đoạn 2009 - 2012, toàn ngành phải thi hành tổng số 1.804.381 việc, với số tiền phải thu 90.444 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành hơn 451 ngàn việc, với 22.611 tỷ đồng; giai đoạn 2013 - 2016 tổng số việc phải thi hành là 3.138.943 việc, với số tiền phải thu 436.150 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành 784.735 việc, với 109.037 tỷ đồng; trong hai năm 2017 và năm 2018 số việc phải thi hành là 1.809.879 việc, với số tiền phải thu 368.960 tỷ đồng, bình quân một năm phải thi hành 904.939 việc, với 184.480 tỷ đồng. Như vậy qua số liệu thống kê cho thấy số việc và số tiền phải thi 1 hành án hàng năm rất lớn, năm sau cao hơn năm trước, đặc biệt về số tiền có sự tăng cao đột biến. Tuy nhiên 1 công tác thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, về cơ bản hàng năm đều đạt và vượt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được Quốc hội, Chính phủ giao; nhiều vụ việc tồn đọng, phức tạp, kéo dài đã được quan tâm chỉ đạo xử lý, giải quyết dứt điểm. Hoạt động thi hành án dân sự đã tạo được lòng tin đối với Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện nay vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế như: Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự còn nhiều bất cập, vướng mắc, chưa phù hợp với thực tiễn; việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, bộ máy còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao ngày càng nặng nề; cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động vẫn còn nhiều khó khăn, đầu tư thiếu đồng bộ; chế độ chính sách đối với người làm công tác thi hành án còn chưa tương xứng với tính chất đặc thù công việc; tình trạng khiếu nại, tố cáo ngày càng nhiều, diễn biến phức tạp; cơ chế phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả chưa cao; kết quả công tác thi hành án dân sự đạt được hàng năm chưa thật sự bền vững; án tồn đọng chuyển kỳ sau, án có điều kiện thi hành nhưng kéo dài, chậm giải quyết còn nhiều... những bất cập, tồn tại này nếu không có cơ chế, biện pháp giải quyết một cách căn cơ, triệt để sẽ ảnh hưởng, làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta có lịch sử hình thành và phát triển chưa lâu, chính vì thế để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, đòi hỏi cần tiếp tục phải có sự tìm hiểu, nghiên cứu chuyên sâu về thi hành án dân sự ở nhiều khía cạnh, giác độ khác nhau cả về lý luận và thực tiễn để có sự đánh giá, nhìn nhận một cách khoa học nhất, khách quan nhất về thi hành án dân sự, qua đó đưa ra những khuyến nghị để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói chung và đặc thù tại các địa phương nói riêng, đảm bảo hoạt động ngày càng hiệu lực, hiệu quả. 2 Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài: "Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Lâm Đồng" để làm luận văn thạc sỹ 2 chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự. Xin nêu một số công trình: Đề tài cấp bộ: "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì; Đề tài cấp bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số: 96-98-027/ĐT do Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng Cục thi hành án dân sự) chủ trì năm 1996; Đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Bộ Tư pháp chủ trì, năm 2000; Đề tài cấp bộ: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện” của Dự án VIE/98/001” do Bộ Tư pháp chủ trì năm 1998; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2001; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”, tác giả Lê Xuân Hồng, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam” của tác giả Trần Anh Tuấn, năm 2002; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Đổi mới tổ chức và hoại động thi hành án dân sự tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quang Thái, năm 2003; Luận văn thạc sỹ Luật học “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, năm 2004; Luận văn thạc sỹ luật học “Quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự” của tác giả Hoàng Kim Chiến, năm 2010; Đề tài khoa học cấp Bộ “Thực trạng đội ngũ Chấp hành viên và xây dựng khung chương trình đào tạo Chấp hành viên theo yêu cầu cải cách tư pháp ”, năm 2010, do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp làm chủ nhiệm; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ 3 quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của tác giả Nguyễn Khánh Na; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” của tác giả Trần Văn Phong; Luận văn thạc sỹ Luật học: “Pháp luật về thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên” của tác giả Lê Thị 3 Lanh. Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Luật Hành chính của Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, các công trình nghiên cứu, các bài viết được công bố trên sách, báo, tạp chí; một số bài viết liên quan đến thi hành án dân sự được đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học... Các công trình nghiên cứu nêu trên có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh khác nhau. Ở một số công trình đã đề cập đến một số vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, như chủ yếu xuất phát từ thực tiễn tại địa phương, chưa có công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện, chuyên sâu về thực trạng công tác thi hành án dân sự trên cả nước trong giai đoạn hiện nay để có giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói chung và đặc thù của tỉnh Lâm Đồng nói riêng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói riêng, có ý nghĩa đối với công tác thi hành án dân sự nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra để giải quyết các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự; - Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng, những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự; - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu bao gồm tổ chức và hoạt động của thi hành án dân sự cấp tỉnh và thi hành án dân sự cấp huyện thuộc tỉnh Lâm Đồng. Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ khi cơ quan thi hành án dân sự tách và thành lập (tháng 7/1993), nhưng tập trung nghiên cứu sâu kể từ thời điểm Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; các quyền con người, quyền công dân; cải cách hành chính và cải cách tư pháp có liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, thống kê, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, khảo sát thực tiễn… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể góp một phần nhỏ vào việc làm đầy đủ, phong phú và toàn diện hơn nhận thức lý luận về thi hành án dân sự, đồng thời góp phần vào việc tăng cường chất lượng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự hiện nay. 5 Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ 6 góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự nói chung và cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng nói riêng; góp một phần vào công cuộc cải cách hành chính, cải cách nền Tư pháp ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm có 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng Chương 3: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh Lâm Đồng 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành án dân sự 1.1.1.1. Khái niệm thi hành án dân sự Trong khoa học pháp lý, “thi hành án” được hiểu là việc đưa các phán quyết của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Như vậy đối tượng của THA là các bản án, quyết định của Tòa án, việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định của Tòa án được coi là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước, bởi lẽ nó một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Theo Đại từ điển tiếng Việt, khái niệm “Thi hành” được hiệu là: "Thực hiện điều đã chính thức quyết định" [71, tr.1559]. Như vậy, THA có thể được hiểu là việc thực hiện các phán quyết của Tòa án hay nói cách khác là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thực hiện. Nếu trong hoạt động xét xử, kết quả xét xử là việc Tòa án xem xét các tình tiết xảy ra, dựa trên chứng cứ, qua đó áp dụng các điều luật cụ thể để đưa ra phán quyết thì kết quả của THA là căn cứ phán quyết của Tòa án để áp dụng pháp luật thực hiện phán quyết đó trên thực tế, THA chính là khâu cuối để công lý được thực thi. Hiện nay còn có những ý kiến khác nhau về khái niệm THA, thể hiện hai quan điểm cơ bản: Quan điểm thứ nhất cho rằng, THA là một giai đoạn của tố tụng bởi: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự”. Quan điểm này cho rằng THA gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử là tiền đề của THA, thi hành án là sự tiếp nối với xét xử, làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực trên thực tế, vì vậy nó có tác dụng củng cố kết quả xét xử. Đặc biệt trong 8 THADS, các quan hệ pháp lý chủ yếu mang tính tài sản – đặc trưng của quan hệ dân sự, thông 9 qua THADS, bên phải THA phải thực hiện các nghĩa vụ về tài sản và bên được THA nhận được các quyền, lợi ích về tài sản. Mặt khác THADS còn có tính độc lập - một đặc trưng của hoạt động tư pháp. Trong hoạt động tổ chức THA, CHV có các nhiệm vụ, quyền hạn mang tính độc lập, pháp luật qui định cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS của CHV. Chính vì THA là một giai đoạn của hoạt động tố tụng nhằm bảo đảm cho phán quyết của Tòa án được thi hành một cách chính xác, kịp thời, do đó hoạt động này phải gắn liền với quá trình xét xử, chịu sự chi phối của quá trình xét xử, đồng thời phải giao cho Tòa án thực hiện, “Bởi nếu tách ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu chung của toàn bộ quá trình tố tụng. Khi chân lý được làm sáng tỏ thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án, chỉ mới dừng lại ở việc làm rõ đúng, sai, phải, trái trên văn bản giấy tờ. Muốn nó được thực hiện trên thực tế, cần phải chờ ở việc tổ chức thi hành án trên thực tế. Vì vậy, thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình xét xử.” [67, tr.8]. Quan điểm thứ hai cho rằng, THA là một giai đoạn mang tính hành chính - tư pháp, các quan hệ THA bao gồm cả quan hệ tố tụng và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp, trong đó các quan hệ mang tính hành chính - tư pháp là chủ yếu, các thủ tục trong quá trình tổ chức THA cũng mang nặng tính hành chính - tư pháp, nhất là thủ tục thi hành các vụ án kinh tế, tuyên bố phá sản, lao động… do đó không thể đồng nhất hoạt động THA với hoạt động tố tụng. Mặt khác do tính chất hành chính – tư pháp nên trong một số lĩnh vực, một số công việc liên quan đến THA, Nhà nước xem xét xây dựng cơ chế pháp lý để từng bước thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây chính là điểm khác biệt của hoạt động THA so với hoạt động tố tụng, bởi hoạt động tố tụng mang tính quyền lực tư pháp, không thể xã hội hóa [67, tr.10-11]. Do THADS không mang tính tố tụng thuần túy, nên nó cần được coi là hoạt động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Việc này là cần thiết để tạo cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn, tránh lạm quyền trong hoạt động tố tụng, bởi một chủ thể là Tòa án không thể làm hai việc vừa ra phán quyết, vừa thực thi phán quyết. 8 Như vậy rõ ràng THA cần một cơ chế độc lập, minh bạch hơn, trách nhiệm giải trình lớn 9

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net