Cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Cơ cấu xã hội của đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công tác cán bộ luôn là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách mạng. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [56, tr.269, 273]. Nên trong quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, đã nhấn mạnh vai trò của đội ngò cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Lịch sử 76 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của đội ngò cán bộ và công tác cán bộ trong thực hiện nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ. Từ phong trào Xô-viết (1930-1931) đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, rồi gần 30 năm đấu tranh giành độc lập tự do, đến quá trình 20 năm đổi mới đất nước. Nhân tố làm nên sự thành công của sự nghiệp cách mạng có thể nhiều, nhưng xuyên suốt và có tính quyết định đó là Đảng ta đã quan tâm, xây dựng đội ngò cán bộ đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn cách mạng đặt ra. Với An Giang, đội ngò cán bộ nói chung và cán bộ đảng, chính quyền nói riêng đã góp phần to lớn vào sự phát triển của tỉnh nhà. Trong cuộc cách mạng giải phóng dân téc, họ đã cùng với toàn đảng bộ, toàn quân, toàn dân chiến đấu anh dũng, kiên cường, bất khuất, mưu trí đánh đuổi giặc ngoại xâm. Thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đội ngò cán bộ là lực lượng chủ yếu hiện thực hóa đường lối đổi mới của Đảng. Do đó, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh không ngừng khởi sắc, luôn gặt hái nhiều thành tựu to lớn, GDP bình quân hàng năm tăng 11,7%, cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực, tăng dần tỷ trọng trong hai lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ; kết cấu hạ tầng không ngừng hoàn thiện; văn hóa, giáo dục có bước phát triển rõ rệt; an ninh - quốc phòng luôn ổn định vững chắc. Đồng thời, chính những biến đổi kinh tế - xã hội ở địa phương giai đoạn 1996 - 2006 đã tạo ra nhu cầu xã hội và là điều kiện cho sự trưởng thành, tiến bộ về nhiều mặt trong đội ngò cán bộ tỉnh An Giang. Và trong thời gian tới, muốn thúc đẩy công cuộc đổi mới ở tỉnh An Giang phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhất thiết phải nâng cao chất lượng đội ngò cán bộ, trước hết là cán bộ đảng, chính quyền thật sự "trong sạch, vững mạnh" nhằm đảm bảo quá trình đổi mới hệ thống chính trị diễn ra đúng hướng, vững chắc với nhịp độ cao. Mét trong những mắt khâu quan trọng của công tác này là phải xác lập một cơ cấu xã hội hợp lý trong đội ngò cán bộ đảng, chính quyền, đặc biệt là đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh. Song, để xây dựng đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn, trước hết chúng ta cần nhận thức khoa học về vấn đề này một cách sâu sắc. Đặc biệt là vận dụng tri thức xã hội học để nghiên cứu, tìm ra các đặc trưng và những vấn đề có tính quy luật về sự vận động, biến đổi của đội ngò cán bộ này. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về cơ cấu của đội ngò cán bộ cấp tỉnh ở An Giang từ hướng tiếp cận vận dụng các lý thuyết và phương pháp nghiên cứu xã hội học. Chính vì lẽ đó, việc phân tích, làm rõ biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh là vấn đề mang tính cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn và khoa học trong việc góp phần xây dựng đội ngò cán bộ ở tỉnh An Giang thời kỳ mới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cơ cấu xã hội vừa là phương pháp tiếp cận “ưu trội” trong nghiên cứu khoa học, đồng thời đây cũng là chủ đề mà nhiều ngành khoa học xã hội cần phải lý giải như: sử học, chính trị học, hành chính học, xây dựng Đảng, tâm lý học, chủ nghĩa xã hội khoa học và xã hội học. Đặc biệt, khi nghiên cứu về đội ngò cán bộ của nước ta, nhiều công trình khoa học Ýt nhiều đã quan tâm dưới giác độ cơ cấu xã hội. Trong đó, cần phải kể đến một số công trình, bài viết có tính khái quát về lý thuyết cơ cấu xã hội như sau: Đỗ Thái Đồng, "Những vấn đề cơ cấu xã hội và sự phát triển ở một xã nông thôn Nam Bé", Tạp chí Xã hội học số 3/1989. Đây là một trong những bài viết đã sớm vận dụng lý thuyết cơ cấu xã hội trong xã hội học để nghiên cứu xã hội nông thôn Việt Nam. Qua đó, tác giả chỉ ra những yếu tố cản trở, bất hợp lý trong lực lượng sản xuất ở nông thôn Nam Bộ thời kỳ mới bắt đầu đổi mới. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đỗ Nguyên Phương (Chủ biên), "Thực trạng và xu thế phát triển cơ cấu xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay", Đề tài cấp nhà nước KX-07-05, Hà Nội, 1995. Đây là công trình cung cấp một số nội dung lý luận về thực trạng và xu thế biến động cơ cấu xã hội giai cấp, lao động, nghề nghiệp, dân cư, dân téc ở nước ta. Đồng thời, tác giả chỉ ra mối quan hệ và việc hình thành con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới. Qua đó, nhóm tác giả đã dự báo những biến động về mặt xã hội của con người qua những biến đổi về cơ cấu xã hội giai cấp, dân số, lao động và nghề nghiệp, dân téc khi chuyển sang cơ chế thị trường. Tô Duy Hợp, "Về thực trạng và xu hướng chuyển đổi cơ cấu xã hội nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay", Tạp chí Xã hội học số 4/1990. Đây là bài viết tóm tắt những đặc điểm và xu hướng chủ yếu của các chuyển đổi từ cơ cấu xã hội nông thôn kiểu cũ sang cơ cấu xã hội nông thôn kiểu mới qua kết quả điều tra xã hội học ở đồng bằng Bắc Bộ trong 10 năm (1980 - 1990), nhất là từ sau chỉ thị 100 của Ban bí thư trung ương Đảng (1/1981). Qua bài viết, tác giả đưa ra ba trình độ chuyển đổi cơ cấu xã hội ở nông thôn, như: vượt trội, chủ động; trung bình và nghèo khổ, thụ động (theo phân tích, tổng hợp thông tin từ làng xã và hộ gia đình). Đồng thời, tác giả khẳng định: cơ cấu xã hội nông thôn trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa bị phân tán và dần hình thành tháp phân tầng xã hội vượt trội - yếu kém, giàu có - nghèo khổ. Nguyễn Đình Tấn, "Phân tích cơ cấu xã hội từ giác độ xã hội học", Tạp chí Xã hội học số 4/1992. Đây là một bài viết đã sớm khẳng định vai trò của lý thuyết cơ cấu xã hội trong nghiên cứu xã hội học nói riêng và trong các chuyên ngành của khoa học xã hội nói chung ở Việt Nam. "Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội", Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005. Đây là một công trình nghiên cứu khá công phu, đã trình bày những khái niệm cơ bản và cách tiếp cận chủ yếu của xã hội học về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội. Đồng thời, tác giả cũng làm rõ việc vận dụng cách tiếp cận lý luận xã hội học vào việc nhận thức và lý giải những vấn đề đang đặt ra trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phạm Xuân Nam, "Mấy nét sơ bộ về sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Xã hội học số 4/2001. Qua bài viết, tác giả đã sử dụng cơ sở lý luận, phương pháp luận trong nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là học thuyết hình thái kinh tế-xã hội của C.Mác. Tác giả đã phác họa từ cơ cấu xã hội - giai cấp "thuần nhất" chuyển sang cơ cấu xã hội - giai cấp đa dạng. Căn cứ vào xu hướng vận động, biến đổi của cơ cấu xã hội - giai cấp ở nước ta, đồng thời đưa ra một vài dự báo về triển vọng trong tương lai. Không chỉ tiếp cận cơ cấu xã hội ở tầm lý thuyết, mang tính khái quát tổng kết và hệ thống, nhiều công trình đã đi sâu vào nghiên cứu sự biến đổi của từng giai tầng xã hội cụ thể. Chẳng hạn có thể kể đến: Nguyễn Duy Quý, "Về quá trình vận động và biến đổi cơ cấu xã hội tầng líp trí thức Việt Nam", Tạp chí Xã hội học số 3/1989. Đây là bài viết khẳng định vai trò to lớn của tầng líp trí thức trong quá trình giữ nước và dựng nước. Đồng thời, tác giả đánh giá tầng líp này tuy có tăng nhanh hơn, nhưng còn mỏng về số lượng, yếu về chất lượng và có cơ cấu xã hội không hợp lý nên chưa ngang tầm nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như chưa đáp ứng yều cầu phát triển khoa học. Nguyễn Hữu Minh, "Nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam từ hướng tiếp cận cơ cấu xã hội - mét số vấn đề đáng quan tâm", Tạp chí Xã hội học số 1/1992. Bài viết đã vận dụng cách tiếp cận cơ cấu xã hội của xã hội học trong việc nghiên cứu giai cấp công nhân. Qua đó, tác giả đã phác họa bức chân dung xã hội của giai cấp công nhân - những đặc trưng về số lượng và chất lượng, đồng thời phân tích các nhóm xã hội bên trong giai cấp công nhân và mối quan hệ giữa chúng. Từ đó, tác giả chỉ ra tính cơ động xã hội của giai cấp công nhân. Phạm Xuân Hảo, "Cơ cấu xã hội của đội ngò sỹ quan trung, sơ cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam - Thực trạng và xu hướng biến đổi", Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Triết học, Hà Nội, 1996. Với công trình nghiên cứu này, tác giả đã làm rõ thực trạng, nguyên nhân, xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò sỹ quan trung, sơ cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Qua đó, công trình đã xây dựng cơ sở khoa học cho các giải pháp xây dựng đội ngò sỹ quan trong tình hình mới. Đặc biệt, một số công trình đã Ýt nhiều vận dụng lý thuyết cơ cấu xã hội vào nghiên cứu và phân tích về đội ngò cán bộ của nước ta. Trong đó có thể kể đến các công trình tiêu biểu sau đây: Trần Xuân Sầm (Chủ nhiệm đề tài KX.05 - 11), "Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới", (Tổng luận kết quả nghiên cứu), Hà Nội, 1994. Đây là công trình nghiên cứu đã đưa ra những luận cứ khoa học về thực trạng cơ cấu và thực trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động của đội ngò cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị, chỉ ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong công tác cán bộ. Đồng thời, công trình dự báo sự biến động cơ cấu, tiêu chuẩn, số lượng, chất lượng và đề xuất một số phương hướng, giải pháp cơ bản có tính hệ thống để xây dựng đội ngò cán bộ lãnh đạo chủ chốt đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới. Thang Văn Phóc - Nguyễn Minh Phương (Đồng chủ biên), "Cơ sở lý luận và thực tiễn Xây dựng đội ngò cán bộ công chức", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005. Qua tác phẩm, hai tác giả đã xác định hệ thống các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Trong các bài viết, công trình nghiên cứu vừa kể trên, về cơ bản đã phác họa những vấn đề liên quan đến cách tiếp cận cơ cấu xã hội và nghiên cứu chủ đề cơ cấu xã hội của khoa học xã hội học; đồng thời, vấn đề cơ cấu đội ngò cán bộ dưới cách tiếp cận của một số khoa học xã hội đã được trình bày. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu nào thực sự vận dụng lý thuyết cơ cấu xã hội dưới cách tiếp cận của xã hội học nhằm đi sâu phân tích, tìm hiểu sự biến đổi xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở một địa phương. Do vậy, đây là vấn đề còn bỏ ngỏ. Nên đề tài "Cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006" mà tác giả nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã công bố. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu - Mục tiêu nghiên cứu + Vận dụng lý thuyết và phương pháp tiếp cận xã hội học về cơ cấu xã hội để phân tích sự biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006. + Đề xuất một số giải pháp xác lập cơ cấu xã hội phù hợp với phương hướng xây dựng đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh vững mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của địa phương An Giang trong giai đoạn sắp tới. - Nhiệm vụ nghiên cứu + Làm rõ cơ sở lý luận, phương pháp phân tích cơ cấu xã hội để đánh giá biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang. + Nhận diện thực trạng về các nội dung, biểu hiện cụ thể của biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang trong giai đoạn 1996 - 2006. + Mô tả, tìm ra những nguyên nhân chủ yếu tác động đến sự biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006. + Đề xuất một số giải pháp nhằm xác lập cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh đáp ứng nhiệm vụ chính trị ở tỉnh An Giang trong thời gian sắp tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang. - Đối tượng thu thập thông tin: Các cá nhân cán bộ công chức, các cơ quan Đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006. - Phạm vi nghiên cứu: + Cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006. + Thời điểm nghiên cứu từ tháng 6 đến tháng 11 năm 2006. 5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn - Phương pháp luận: + Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ và công tác cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. + Lý luận và phương pháp luận nghiên cứu xã hội học về cơ cấu xã hội. - Phương pháp nghiên cứu cô thể: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: + Phân tích tài liệu có sẵn: đây là những tài liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết, các công trình nghiên cứu trước đây, các số liệu thống kê về tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh An Giang giai đoạn 1996 - 2006; về đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006. + Điều tra bằng phiếu an-két với số lượng 234 phiếu, tương ứng với 234 cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh đang công tác ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006. + Trao đổi, phỏng vấn sâu 15 trường hợp là cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cơ quan khối Đảng và khối chính quyền cấp tỉnh ở An Giang. + Quan sát trực tiếp về hoạt động của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở 15 đơn vị mà tác giả đến nghiên cứu thực tế. 6. Giả thuyết nghiên cứu, biến số, khung phân tích - Giả thuyết nghiên cứu: Giả thuyết 1: Đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 - 2006 có sự biến đổi về cơ cấu xã hội (thành phần xã hội, tuổi, trình độ học vấn, giới tính, dân téc, tôn giáo). Giả thuyết 2: Chủ trương xây dựng đội ngò cán bộ là nhân tố có vai trò quyết định đến sự biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh ở An Giang giai đoạn 1996 -2006. - Hệ biến số phân tích: Biến số độc lập: + Nỗ lực chủ quan của cá nhân cán bộ; + Môi truờng công tác (lĩnh vực, ngành) của cán bộ; + Chủ trương về công tác cán bộ của tỉnh An Giang; + Mạng lưới quan hệ xã hội của cán bộ. Biến sè phụ thuộc: + Thành phần xã hội của đội ngò cán bộ; + Học vấn, đào tạo của đội ngò cán bộ; + Tuổi đời của đội ngò cán bộ; + Giới tính của đội ngò cán bộ; + Dân téc của đội ngò cán bộ; + Tôn giáo của đội ngò cán bộ. Biến sè tham dù: + Đường lối, chính sách cán bộ của Đảng và Nhà nước ta giai đoạn 1996 - 2006. + Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của tỉnh An Giang giai đoạn 1996 - 2006. - Khung phân tích Quan ®iÓm, chÝnh s¸ch cña §¶ng, Nhµ níc ta vÒ c¸n bé vµ c«ng t¸c c¸n bé giai ®o¹n 1996 - 2006 Nç lùc chñ quan C¬ cÊu BiÕn cña c¸ nh©n thµnh phÇn xuÊt th©n ®æi c¬ c¸n bé ®¶ng, chÝnh quyÒn cÊu x· C¬ cÊu løa héi cña tuæi M«i trêng c«ng ®éi ngò t¸c cña ®éi ngò c¸n bé ®¶ng, c¸n bé C¬ cÊu chÝnh quyÒn tr×nh ®é ®¶ng, cÊp tØnh häc vÊn chÝnh Chñ tr¬ng vÒ C¬ cÊu tr×nh quyÒn c«ng t¸c c¸n bé ®é lý luËn cÊp cña tØnh An chÝnh trÞ Giang giai ®o¹n tØnh ë An Giang C¬ cÊu d©n téc, t«n gi¸o M¹ng líi quan hÖ C¬ cÊu x· héi cña c¸n bé giíi ®¶ng, chÝnh T×nh h×nh ph¸t triÓn kinh tÕ-x· héi cña ®Êt níc vµ cña tØnh An Giang 7. Đóng góp và ý nghĩa của đề tài - Cung cấp cơ sở lý luận, phương pháp khoa học trong phân tích, đánh giá để nâng cao chất lượng đội ngò cán bộ đảng, chính quyền đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh An Giang trong thời kỳ mới. - Đề xuất một số giải pháp có cơ sở khoa học trước xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh nhằm góp phần xây dựng đội ngò cán bộ đảng, chính quyền ngày càng có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh An Giang trong thời kỳ mới. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác cán bộ và nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến công tác cán bộ ở địa phương. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM VẬN DỤNG VÀO PHÂN TÍCH TRONG LUẬN VĂN 1.1.1. Cơ cấu xã hội Cơ cấu xã hội là khái niệm được nhiều ngành khoa học xã hội nghiên cứu nh: Triết học, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Chính trị học, Sử học, Dân téc học, Xã hội học... Tùy theo đối tượng, chức năng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu mà mỗi khoa học có quan niệm và cách tiếp cận khác nhau. Trong khoa học xã hội học, cơ cấu xã hội là khái niệm trung tâm, then chốt; phân tích cơ cấu xã hội là phương pháp tiếp cận đặc thù của xã hội học trong nghiên cứu về các hệ thống xã hội. Vì thế, trong lý thuyết của mình, các nhà xã hội học đều bàn đến khái niệm cơ cấu xã hội. J. H. Fischer (nhà xã hội học người Mỹ) cho rằng: “Cơ cấu của một xã hội liên hệ đến sự sắp đặt những thành phần hoặc những đơn vị của xã hội đó. Nếu chúng ta nhìn xã hội toàn diện như một hỗn hợp những đoàn thể chủ yếu, chúng ta sẽ nhận thấy những thành phần chính đó đều được đặt trong một tương quan có thứ tự là lệ thuộc hỗ tương với nhau” [25, tr.96]. Khi nghiên cứu cơ cấu xã hội phải xem xét cả “sắc thái tĩnh” và “sắc thái động” của nó, hai sắc thái trên luôn liên kết với nhau. "Ngay cả khi nghiên cứu về sắc thái gọi là "tĩnh" của những cơ cấu xã hội, chúng ta phải hiểu rằng cơ cấu luôn luôn "chuyển động" đối với thời gian, với chiều hướng và với những con người trong những cơ cấu Êy” [25, tr.96]. Theo quan niệm của G.V. Oxipov (nhà xã hội học người Nga), Cơ cấu xã hội là toàn thể các mối liên hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố trong một hệ thống xã hội. Những cộng đồng xã hội (các giai cấp, dân téc, tập đoàn chính trị, nghề nghiệp, tập doàn dân cư, tập đoàn theo lãnh thổ,v.v.) là những yếu tố của cơ cấu xã hội, còn các mối liên hệ là các quan hệ xã hội quy định bởi địa vị và vai trò mỗi cộng đồng xã hội trong hệ thống của tất cả các quan hệ xã hội. Phương diện xã hội của bất cứ yếu tố cơ cấu nào đều tập trung vào các mối liên hệ của nó với những quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp trong xã hội [61, tr.507]. V. Doborianov (nhà xã hội học Bungaria) cho rằng, “Phạm trù cơ cấu xã hội học được diễn đạt theo một mặt cắt ngang của xã hội với tính cách một hệ thống hoàn chỉnh. Mặt cắt đó cho ta thấy cấu tạo, tức là các bộ phận cấu thành của hệ thống, và cách thức tác động qua lại của các bộ phận đó” [13, tr.76]; Hoạt động lao động của con người để tạo ra các điều kiện sống cần thiết và thoả mãn các nhu cầu của họ, diễn ra trong khuôn khổ một số quan hệ xã hội nhất định và thông qua một số thiết chế xã hội nhất định. Do hoạt động lao động là điều kiện chung cho sự tồn tại của xã hội, có thể giả định rằng các phần phân chia cơ bản của các chức năng của lao động là điểm xuất phát đầu tiên để rót ra cơ cấu xã hội học và do mỗi kiểu hoạt động lại giả định số nhân tố tối thiểu trên đây, kết luận rút được ra sẽ là cơ cấu xã hội học không phải là đơn tuyến mà là một cơ cấu nhiều chiều và nhiều khía cạnh [13, tr.77-78]. Khía cạnh thứ nhất của cơ cấu xã hội có liên quan đến số tối thiểu các hình thức tuyệt đối cần thiết của hoạt động lao động, khiến cho xã hội - bất kể nó là gì - có thể hoạt động và phát triển được. Khía cạnh thứ hai của cơ cấu xã hội xuất phát từ các điều kiện hoặc nhân tố cơ bản cho mỗi kiểu lao động, được thực hiện trong những quan hệ xã hội nhất định và những thiết chế xã hội tương ứng. Khía cạnh thứ ba của cơ cấu xã hội học phản ánh sự phân biệt các kiểu hoạt động cơ bản, các quan hệ và thiết chế tương ứng của chúng. "Theo V. A.Dobrianov, cơ cấu xã hội theo giác độ phân tích của xã hội học chính là cơ cấu xã hội nhiều chiều, nhiều khía cạnh, và sự trừu tượng hóa phạm trù cơ cấu xã hội là tiêu chuẩn "3 ngôi 1 thể" gồm hoạt động xã hội, quan hệ xã hội và thiết chế xã hội” [73, tr.16]. Và, "theo quan niệm đó, cơ cấu xã hội học là sự tác động qua lại giữa các lĩnh vực cơ bản của hệ thống xã hội học, được hình thành trên cơ sở của các kiểu hoạt động cơ bản, thống nhất với các quan hệ và các thiết chế tương ứng [73, tr.16]. Ngoài các quan niệm trên còn có nhiều quan niệm khác của các nhà xã hội học thế giới và Việt Nam về cơ cấu xã hội. Song tựu chung lại, khi bàn đến cơ cấu xã hội với tính cách là một khái niệm cơ bản của xã hội học, các nhà xã hội học này thường đề cập đến các nội dung sau đây: Một là, cơ cấu xã hội là kết cấu xã hội (cấu trúc xã hội) của hệ thống xã hội. Hai là, cơ cấu xã hội là sự sắp đặt, thang bậc của các yếu tố, các thành phần xã hội cấu thành hệ thống xã hội (về nội dung này, các nhà xã hội học có những quan niệm khác nhau, hoặc là thành phần xã hội, hoặc là yếu tố xã hội, hoặc là nhóm xã hội, …). Ba là, nói đến cơ cấu xã hội là nói đến cơ chế của các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố, các thành phần của hệ thống xã hội; sự liên hệ Êy tạo nên tính quy luật tích hợp của mỗi hệ thống xã hội. Bốn là, cơ cấu xã hội luôn trong trạng thái vận động, biến đổi. Từ những hiểu biết trên, chúng tôi đồng tình với quan niệm của Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh về cơ cấu xã hội: Cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định - biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất của hệ thống xã hội, những thành phần này tạo ra bé khung cho tất cả các xã hội loài người. Những thành tố cơ bản nhất của cơ cấu xã hội là nhóm, vai trò, vị thế xã hội, mạng lưới xã hội và các thiết chế [75, tr.117]. Quan niệm này đã chỉ ra rằng: Thứ nhất, cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định [75, tr.117]. Nã cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội, giữa cái bộ phận và cái tổng thể. Thứ hai, cơ cấu xã hội là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản của một hệ thống xã hội nhất định [75, tr.118]. Quan niệm này khắc phục được cách nhìn phiến diện khi quy cơ cấu xã hội vào các quan hệ xã hội, vừa khắc phục được cách nhìn tách rời giữa cơ cấu xã hội và các quan hệ xã hội. Thứ ba, coi cơ cấu xã hội là "bộ khung", "bộ dàn" để xem xét xã hội [75, tr.119]. Việc đưa ra quan niệm cơ cấu xã hội là cơ sở cho việc phân tích hệ thống xã hội dưới cái nhìn xã hội học về cơ cấu xã hội. Thứ tư, xác định nhóm xã hội là thành tố cơ bản, là đơn vị phân tích để hiểu được cơ cấu xã hội. Đây là nét riêng biệt và là điểm khác biệt trong quan niệm xã hội học về cơ cấu xã hội so với các quan niệm trước đó. Bởi vì, theo quan niệm của G.V. Oxipov, các yếu tố trong một hệ thống xã hội là các giai cấp, dân téc, tập đoàn chính trị, nghề nghiệp, tập đoàn dân cư, tập đoàn theo lãnh thổ,v.v… Đây là cách tiếp cận vĩ mô về các yếu tố trong một hệ thống xã hội. Nó chưa cho thấy tính đa diện, nhiều cấp độ trong cấu trúc của hệ thống xã hội. Còn J. H. Fischer mới dừng lại ở chỗ cho rằng các yếu tố trong một hệ thống xã hội là những thành phần hoặc những đơn vị của xã hội đó, mà chưa đưa ra được cái cụ thể. Cũng tương tù nh vậy, V. Doborianov cho rằng, các yếu tố trong một hệ thống xã hội là các thành phần cơ bản của hệ thống xã hội và các thành phần cơ bản này hình thành trong hoạt động sản xuất của xã hội. 1.1.2. Biến đổi cơ cấu xã hội Cơ cấu xã hội của bất kỳ một hệ thống xã hội nào cũng luôn luôn vận động và biến đổi. Biến đổi cơ cấu xã hội là khái niệm chỉ sự khác biệt cơ cấu xã hội ở thời điểm hiện tại so với thời điểm trước đó của một hệ thống xã hội; sự khác biệt về tính chất, quy mô, vai trò, mối liên hệ giữa các yếu tố trong từng phân hệ cơ cấu, từ đó đặt ra những vấn đề xã hội phải giải quyết. Khi giải thích về sự vận động, biến đổi cơ cấu xã hội có nhiều quan niệm, trường phái khác nhau. Trường phái lý thuyết xã hội học mác-xít: Trong lý thuyết hình thái kinh tế - xã hội, C. Mác đã chứng minh rằng, nhân tố quan trọng nhất quy định sự biến đổi cơ cấu xã hội là hoạt động sản xuất vật chất, suy cho cùng là sự phát triển về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Mác cho rằng, biến đổi cơ cấu liên hệ xã hội là một hiện tượng phổ biến tự nhiên của mọi hệ thống xã hội. Trong nhiều tác phẩm Mác đã khẳng định, chính hoạt động thực tiễn của con người tạo nên xã hội và làm thay đổi bộ mặt xã hội, rằng mọi sự giải thích về sự biến đổi xã hội nếu tách rời hoạt động sản xuất vật chất tất yếu dẫn đến ngụy biện chủ quan. Mác đã viết trong tác phẩm Sự khèn cùng của triết học: Những quan hệ sản xuất đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội có lãnh chóa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại cho xã hội có nhà tư bản công nghiệp [54, tr 32]. Điều đáng chú ý là, trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của sản xuất vật chất, của yếu tố kinh tế, Mác tuyệt nhiên không tuyệt đối hóa vai trò của nó đối với tiến trình phát triển xã hội. Theo Mác, có nhiều nhân tố khác cũng tác động quan trọng đến sự biến đổi cơ cấu xã hội. Quan điểm này biểu hiện trong việc Mác phân tích mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội với ý thức xã hội. Như vậy, theo lý thuyết xã hội học mác-xít, có nhiều nhân tố tác động đến sự biến đổi cơ cấu xã hội, trong đó, xét cho cùng, nhân tố quan trọng nhất, quyết định nhất là sự phát triển của sản xuất vật chất, hay cụ thể hơn, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động cơ bản của con người, do đó phân tích cơ cấu xã hội phải lấy hoạt động sản xuất làm cơ sở. Sự hình thành, biến đổi của cơ cấu xã hội nằm trong sự vận hành của hình thái kinh tế - xã hội; mỗi hình thái kinh tế - xã hội có cơ cấu xã hội của chính nó. Các yếu tố của hình thái kinh tế - xã hội quy định sự hình thành, biến đổi của cơ cấu xã hội [31, tr.11]. Trường phái lý thuyết xã hội học phi mác-xít: Trái ngược với Mác, các nhà xã hội học khi lý giải về nguyên nhân của sự biến đổi cấu trúc, chức năng của các yếu tố cấu thành hệ thống xã hội, họ thường không coi trọng các nguyên nhân từ sản xuất vật chất, từ cấu trúc kinh tế, mà họ có xu hướng coi trọng các nguyên nhân, động lực về văn hóa, về chính trị tinh thần. A. Comte (1798 - 1857) nhà xã hội học người Pháp cho rằng, động lực thúc đẩy sự biến đổi cấu trúc xã hội chính là tri thức, trí tuệ và văn hóa; muốn tổ chức, quản lý xã hội phải nắm được những quy luật cấu trúc và liên hệ của xã hội. E. Durkheim (1853 - 1917) nhà xã hội học người Pháp cho rằng, văn hóa và tôn giáo không phải là sự phản ánh của cơ cấu kinh tế - xã hội, mà nó có quá trình sinh thành riêng và tạo thành trật tự đạo lý xã hội. Trật tự đạo lý xã hội là nguồn gốc của các hoạt động xã hội, là quy luật phổ biến để duy trì trật tự xã hội và là động lực của sự tiến hóa xã hội. Là người đặt nền móng cho chủ nghĩa chức năng - cấu trúc trong xã hội học, ông cho rằng: sự biến đổi xã hội chính là sự biến đổi về cấu trúc, chức năng của xã hội. Max Weber (1864 - 1920) nhà xã hội học người Đức, là người khởi xướng lý thuyết hành động xã hội cho rằng, sự biến đổi xã hội thực chất và quan trọng nhất là biến đổi về cấu trúc của hành động xã hội. Vấn đề mà lý thuyết hành động xã hội quan tâm đó là văn hóa, bởi đó là cội nguồn của hành động xã hội. Nh vậy, cũng giống nh Comte và Durkheim, Weber đặc biệt đề cao vai trò của yếu tố văn hóa đối với sự biến đổi cấu trúc xã hội và liên hệ xã hội. 1.1.3. Cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh - Cán bé: Cán bộ là một danh từ xuất hiện ở nước ta trong từ thời kỳ chống thực dân Pháp, để chỉ một líp người phấn đấu cho lợi Ých của giai cấp, dân téc. Từ cán bộ được du nhập từ Trung Quốc, ban đầu được dùng nhiều trong quân đội, sau đó dùng để chỉ tất cả những người thoát ly, để phân biệt với nhân dân. Cho đến nay, theo cách hiểu thông thường cán bộ được coi là tất cả những người hoạt động thoát ly, làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể, quân đội. Trong cuốn Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ, để đặt chính sách cho đúng" [56, tr.296]. Theo Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 2006, cán bộ có hai nghĩa: "1. Người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước…; 2. Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ…" [86, tr.109]. Với nghĩa thứ nhất, cán bộ không chỉ là những người làm công tác có chuyên môn nghiệp vụ trong cơ quan nhà nước, mà còn trong cả hệ thống chính trị và cũng chỉ những người có trình độ đã qua đào tạo từ cao đẳng, đại học trở lên. Những người có trình độ đào tạo thấp hơn gọi là nhân viên. Bộ phận cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ thường được hình thành thông qua con đường đào tạo từ nhà trường. Đây là bộ phận cán bộ đông đảo và ổn định nhất. Với nghĩa thứ hai, cán bộ là những người có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức; là đội ngò cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người có chức vụ, phân biệt với người không có chức vụ. Bộ phận cán bộ này được hình thành thông qua việc bầu cử dân chủ hoặc được đề bạt, bổ nhiệm. - Cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh: Đội ngò cán bộ ở nước ta đã được xây dựng và trưởng thành qua các thời kỳ cách mạng. Có nhiều cách thức để phân loại cán bộ: phân loại theo ngành nghề (cán bộ khoa học, cán bộ giáo dục, cán bộ lực lượng vũ trang,…), phân loại theo cấp (cán bộ cao cấp, cán bộ trung cấp, cán bộ sơ cấp), phân loại theo vị trí công tác (cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã), phân loại theo tổ chức, đoàn thể xã hội (cán bộ đảng, cán bộ chính quyền, cán bộ đoàn thể,…). Cán bộ đảng, chính quyền cấp tỉnh là sự kết hợp hai cách phân loại: theo vị trí công tác và phân loại theo tổ chức, đoàn thể xã hội. Trong đó, cán bộ đảng cấp tỉnh là người trực tiếp phụ trách một lĩnh vực công tác ở cơ quan khối Đảng cấp tỉnh, có trách nhiệm vạch ra và chi phối việc chấp hành chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương; Cán bộ chính quyền cấp tỉnh là người trực tiếp phụ trách một lĩnh vực công tác ở cơ quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh, có trách nhiệm đảm bảo việc thực hiện quyền lực của chính quyền, vừa đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Cán bộ đảng cấp tỉnh ở An Giang bao gồm những đồng chí đang công tác tại một số đơn vị như: Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Dân vận Tỉnh ủy, Ủy ban kiểm tra Tỉnh ủy, Văn phòng Tỉnh ủy, Đảng ủy Liên cơ, Trường Chính trị Tôn Đức Thắng và Báo An Giang. Cán bộ chính quyền cấp tỉnh ở An Giang bao gồm những đồng chí đang công tác tại một số đơn vị như: Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh, Sở Nội vụ, Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Khoa học - Công nghệ, Sở Giáo dục và đào tạo, Sở Lao động, TB và XH, Sở Tư pháp, Sở Y tế, Sở Thể dục thể thao, Sở Bưu chính - Viễn thông, Thanh ta tỉnh, Ủy ban dân số, Gia đình và Trẻ em, Ban Dân téc và Miền núi, Ban Tôn giáo, Ban Biên giới… 1.1.4. Biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ Đội ngò cán bộ là những người được lùa chọn, đào tạo, bồi dưỡng theo những tiêu chuẩn chức danh quy định, được giao trọng trách lãnh đạo, quản lý hoặc đảm nhiệm những công tác chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ chủ yếu trong hệ thống tổ chức xã hội nhất định. Xem xét trong một hệ thống xã hội rộng lớn (quốc gia, hệ thống chính trị), đội ngò cán bộ là một nhóm xã hội - yếu tố của các hệ thống xã hội đó; xem xét ở khía cạnh độc lập, đội ngò cán bộ là một hệ thống xã hội, có cấu trúc với các mối liên hệ bên trong và có những “quy luật tích hợp”. Còng nh bất kỳ hệ thống xã hội nào, hệ thống - đội ngò cán bộ có sự biến đổi về cơ cấu xã hội. Sự biến đổi đó thể hiện ở sự biến đổi về quy mô, tính chất của cơ cấu thành phần xã hội, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu dân số, cơ cấu téc người, cơ cấu tôn giáo. Từ khái niệm biến đổi cơ cấu xã hội, có thể hiểu: Biến đổi cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ là khái niệm chỉ sự khác biệt về cơ cấu xã hội của đội ngò cán bộ (với tính cách là một hệ thống xã hội) ở thời điểm hiện tại so với thời điểm trước đó; thể hiện ở sự khác biệt về quy mô, tính chất của các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản, sự thay đổi vị trí, vai trò của các phân hệ cơ bản kéo theo sù thay đổi về tính chất các mối liên hệ trong đội ngò cán bộ, từ đó đặt ra những vấn đề mới cho công tác cán bộ. 1.2. CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT Nam VỀ CÁN BỘ, CÔNG TÁC CÁN BỘ 1.2.1. Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net