Tính chuyên biệt trên các ấn phẩm Tạp chí Truyền hình (Khảo sát trên ấn phẩm Tạp chí Truyền hình VTV, Tạp chí Truyền hình Số VTC, Tạp chí Truyền hình Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2011)

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Tính chuyên biệt trên các ấn phẩm Tạp chí Truyền hình (Khảo sát trên ấn phẩm Tạp chí Truyền hình VTV, Tạp chí Truyền hình Số VTC, Tạp chí Truyền hình Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2011)

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO TÍNH CHUYÊN BIỆT TRÊN CÁC ẤN PHẨM TẠP CHÍ TRUYỀN HÌNH (Khảo sát trên ấn phẩm tạp chí Truyền hình VTV, tạp chí Truyền hình Số VTC, tạp chí Truyền hình Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2011) LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ Hà Nội-2013 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------*------------- NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO TÍNH CHUYÊN BIỆT TRÊN CÁC ẤN PHẨM TẠP CHÍ TRUYỀN HÌNH (Khảo sát trên ấn phẩm tạp chí Truyền hình VTV, tạp chí Truyền hình Số VTC, tạp chí Truyền hình Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2011) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học Mã số: 60 32 01 Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẬU NGỌC ĐẢN Hà Nội – 2013 2 MỤC LỤC Phần mở đầu ................................................................................................. 8 Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠP CHÍ VÀ TÍNH CHUYÊN BIỆT TRÊN TẠP CHÍ ............................................................................... 13 1.1 Lý luận chung về tạp chí ................................................................... 13 1.1.1 Khái niệm ...................................................................................... 13 1.1.2 Lịch sử phát triển tạp chí ở Việt Nam ............................................ 14 1.1.3 Chức năng và nhiệm vụ của tạp chí ............................................... 17 1.2 Một số vấn đề về tính chuyên biệt trên tạp chí ................................ 19 1.2.1 Xu hướng chuyên biệt hóa trong các loại hình truyền thông tại Việt Nam nói chung ............................................................................... 19 1.2.2 Tính chuyên biệt trên các ấn phẩm tạp chí ..................................... 22 * Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 30 Chương 2. ĐẶC TRƯNG, ĐẶC THÙ CỦA TẠP CHÍ TRUYỀN HÌNH........................................................................................................... 31 2.1 Đặc điểm giống và khác nhau của các ấn phẩm tạp chí truyền hình được khảo sát .................................................................................. 31 2.1.1 Sự giống nhau ............................................................................... 31 2.1.2 Sự khác nhau ................................................................................. 32 2.2 Tính chuyên biệt thể hiện trên các ấn phẩm tạp chí truyền hình được khảo sát so với các tạp chí khác .................................................... 44 2.2.1 Nội dung chuyên biệt .................................................................... 44 2.2.2 Đối tượng độc giả, công chúng chuyên biệt ................................... 72 2.2.3 Ngôn ngữ chuyên biệt ................................................................... 75 2.2.4 Chuyên mục chuyên biệt ............................................................... 76 2.2.5 Hình thức ...................................................................................... 78 * Tiểu kết chương 2. ................................................................................ 84 5 Chương 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO TÍNH CHUYÊN BIỆT TRÊN CÁC ẤN PHẨM TẠP CHÍ TRUYỀN HÌNH ..................... 85 3.1 Đánh giá tính chuyên biệt trên 3 ấn phẩm khảo sát ........................ 85 3.1.1 Ưu điểm ........................................................................................ 85 3.1.2 Nhược điểm ................................................................................... 87 3.2 Các kiến nghị về việc xây dựng và nâng cao tính chuyên biệt trên các ấn phẩm tạp chí Truyền hình ................................................... 89 3.2.1 Xác định rõ đối tượng bạn đọc trong điều kiện mới để tăng thêm hàm lượng văn hóa, chất lượng thông tin của từng tờ tạp chí. ........ 90 3.2.2 Làm tốt hơn nữa các công tác điều tra xã hội học .......................... 91 3.2.3 Cần tạo nên bản sắc riêng trong cách thức hoạt động thông tin, phản ánh. ................................................................................................ 92 3.2.4 Lãnh đạo cơ quan truyền hình cần coi việc đầu tư phát triển tạp chí là thế mạnh, là yếu tố để hình thành tập đoàn báo chí - truyền thông trong tương lai. ............................................................................. 93 3.2.5 Đầu tư xây dựng đội ngũ phóng viên, biên tập viên. ...................... 94 * Tiểu kết chương 3. ................................................................................ 96 Phần kết luận .............................................................................................. 97 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 99 PHỤ LỤC.................................................................................................. 101 6 DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Các tạp chí, ấn phẩm dành cho nữ giới ra đời từ năm 1993 - 2010 .... 24 Bảng 2.1: Kết quả bảng khảo sát “Độc giả muốn đọc gì nhất trong các ấn phẩm tạp chí truyền hình?” ........................................................................... 73 Bảng 2.2: Bảng phân bổ tin tức trên các ấn phẩm truyền hình được khảo sát ........................................................................................................ 74 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ % nội dung tra cứu, tra khảo các khái niệm học thuật thuộc lĩnh vực truyền hình trên tạp chí Truyền hình VTV ...................................... 45 Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ % nội dung tra cứu, tra khảo các khái niệm học thuật thuộc lĩnh vực truyền hình trên tạp chí Truyền hình Hà Nội .................................. 49 Biểu đồ 2.3: Tỷ lệ % nội dung tra cứu, tra khảo các khái niệm học thuật thuộc lĩnh vực truyền hình trên tạp chí Truyền hình Số VTC ................................. 53 Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ % thông tin chỉ dẫn truyền hình trên tạp chí Truyền hình VTV ............................................................................................................. 56 Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ % thông tin chỉ dẫn truyền hình trên tạp chí Truyền hình Hà Nội.......................................................................................................... 59 Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ % thông tin chỉ dẫn truyền hình trên tạp chí Truyền hình Số VTC ........................................................................................................ 61 Biểu đồ 2.7: Tạp chí Truyền hình Việt Nam VTV có 20% số bài viết mang nội dung thông tin là cơ quan ngôn luận của Đài .......................................... 63 Biểu đồ 2.8: Tạp chí Truyền hình Hà Nội có 26% số bài viết mang nội dung thông tin là cơ quan ngôn luận của Đài......................................................... 63 Biểu đồ 2.9: Tạp chí Truyền hình Số VTC có 10% số bài viết mang nội dung thông tin là cơ quan ngôn luận của Đài......................................................... 63 7 Phần mở đầu 1. Lý do lựa chọn đề tài Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, cũng như sự tác động mạnh mẽ của công nghệ thông tin trong môi trường toàn cầu hóa, các loại hình báo chí nước ta đã có những bước phát triển vượt bậc cả về hình thức, chất lượng, số lượng, đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hệ thống báo chí cả nước cũng đã tích cực tuyên truyền, cổ vũ toàn dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Báo chí ngày càng khẳng định rõ vị trí, vai trò là tiếng nói của Đảng, chính quyền, là diễn đàn của nhân dân, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, mở rộng dân chủ, tạo sự đồng thuận trong xã hội, xây dựng đất nước ngày` càng giàu đẹp văn minh. Có thể nói rằng, chưa bao giờ báo chí nước ta đạt được trình độ phát triển toàn diện như hiện nay, trên bình diện cả số lượng, chất lượng, loại hình, công nghệ - kỹ thuật, đội ngũ làm báo. Bởi vậy, muốn đứng vững trong thị trường báo chí sôi động hiện nay, mỗi tờ báo, mỗi tòa soạn đều phải giải bài toán làm thế nào để tìm cho mình một hướng đi riêng, một bản sắc riêng… Và chuyên biệt hóa trong truyền thông cũng là hướng đi mới và tất yếu của báo chí nói chung. Dòng tạp chí truyền hình là một trong số ít dòng tạp chí làm được điều này. Mặc dù dòng tạp chí truyền hình chỉ xuất hiện trong vài năm trở lại đây nhưng không thể phủ nhận nó đã chiếm được lòng của số đông độc giả nhờ phong cách, bản sắc riêng mà không phải dòng tạp chí nào cũng làm được, đáp ứng đúng nhu cầu của một xã hội năng động, hiện đại. Nó đã thế hiện được phong cách riêng, tính chuyên biệt riêng của dòng tạp chí của lĩnh vực truyền hình. Điều này đã thu hút tác giả luận văn và mong muốn được đào sâu vấn đề trên trong luận văn này. 8 Hiện nay, tại khu vực miền Bắc phải kể đến ba tờ tạp chí truyền hình rất nổi bật đó là: Tạp chí truyền hình VTV (của Đài truyền hình Việt Nam), Tạp chí truyền hình Hà Nội (của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội), Tạp chí truyền hình Số (của Đài truyền hình Kỹ thuật số VTC). Sự ra đời của chúng đã thổi một làn gió mới mẻ vào hoạt động báo chí nói chung và hoạt động tạp chí nói riêng. Chính bởi thế, việc nghiên cứu bản sắc, phong cách riêng, cụ thể hơn là tính chuyên biệt của dòng tạp chí truyền hình và việc phát triển tính chuyên biệt ấy là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hiện nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến tạp chí. Một trong những nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu sâu về tạp chí đó là khóa luận cử nhân của Vũ Thị Vân Anh khoa báo chí – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 1996 với đề tài “Bước đầu tìm hiểu nội dung và hình thức một số tạp chí văn hóa đời sống hiện nay”. Luận văn này đã bước đầu xây dựng được hệ thống lý thuyết về tạp chí và nêu ra được một số đặc trưng, đặc điểm nổi bật qua việc khảo sát nội dung và hình thức của tạp chí văn hóa đời sống. Tuy nhiên khóa luận vẫn chưa khảo sát sâu các vấn đề khác của tạp chí ngoài nội dung và hình thức. Các vấn đề khác liên quan đến tạp chí cũng bắt đầu được đề cập rải rác thông qua một số công trình nghiên cứu như khóa luận cử nhân của Nguyễn Thu Hiền – khoa báo chí, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 1998 với đề tài “Hiệu quả và bất cập của dòng tạp chí chỉ dẫn tại Việt Nam”, và khóa luận “Phụ nữ và những vấn đề của phụ nữ trên báo chí” của Nguyễn Quỳnh Hương, khoa báo chí – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, năm 1996. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền như khóa luận “Tạp chí Tiếng Việt – Những vấn đề cần thảo luận dưới góc độ báo chí học”, “Câu chuyện báo chí trên các ấn phẩm tạp chí, chuyên san hiện nay”… 9 Tuy vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập tới tính chuyện biệt trên dòng tạp chí. Chỉ có một số ít bài viết, công trình nghiên cứu nhỏ về tính chuyên biệt trên báo chí nói chung. Với đề tài “Tính chuyện biệt trên dòng tạp chí truyền hình”, luận văn này sẽ có ý nghĩa như là một trong những công trình khảo cứu đầu tiên về tính chuyên biệt trên báo chí truyền thông nói chung và dòng tạp chí truyền hình nói riêng. Từ việc phân tích lịch sử nghiên cứu đề tài nói trên, có thể thấy đề tài luận văn là một hướng nghiên cứu mới ở Việt Nam và không trùng lặp với các nghiên cứu trước đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích Tìm hiểu và bước đầu trình bày một cách hệ thống các vấn đề lý thuyết liên quan đến truyền thông chuyên biệt. Nghiên cứu, đánh giá một cách khoa học về tính chuyên biệt trên dòng tạp chí hiện nay, khảo sát cụ thể trên dòng tạp chí truyền hình thông qua 3 ấn phẩm: Tạp chí truyền hình VTV, Tạp chí truyền hình Hà Nội, Tạp chí truyền hình Số từ năm 2009 đến năm 2011 để minh chứng tính chuyên biệt của truyền thông nói chung và dòng tạp chí nói riêng đang là xu thế tất yếu của truyền thông hiện đại. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra những yếu tố thể hiện tính chuyên biệt trên dòng tạp chí truyền hình, trong đó tập trung sâu vào ba yếu tố chính: Nội dung, hình thức và đối tượng công chúng chuyên biệt. Từ đó, đánh giá một cách khoa học về ưu-nhược tính chuyên biệt được thể hiện trên 3 ấn phẩm được khảo sát, và đưa ra một số kinh nghiệm bước đầu để xây dựng và nâng cao tính chuyên biệt trên các ấn phẩm tạp chí truyền hình. 3.2 Nhiệm vụ Những mục tiêu nghiên cứu trên được cụ thể hóa bằng những nhiệm vụ sau: 10 - Tìm hiểu về xu hướng chuyên biệt hóa nói chung và truyền thông chuyên biệt nói riêng. - Trình bày rõ xu hướng chuyên biệt hóa trên từng loại hình truyền thông tại Việt Nam (báo hình, báo in, báo mạng, phát thanh). - Phân tích cụ thể về tính chuyên biệt của dòng tạp chí. - Khảo sát thực tiễn tính chuyên biệt được thể hiện qua 3 ấn phẩm tạp chí truyền hình từ năm 2009-2011. - Đánh giá được những ưu- nhược của tính chuyên biệt được thể hiện trên 3 ấn phẩm được khảo sát và đưa ra được những giải pháp, một số kinh nghiệm bước đầu nhằm nâng cao tính chuyên biệt trên các ấn phẩm đó. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tính chuyên biệt trên tạp chí. - Phạm vị nghiên cứu: tạp chí Truyền hình VTV (của Đài truyền hình Việt Nam), tạp chí Truyền hình Hà Nội (của Đài phát thanh và truyền hình Hà Nội), tạp chí Truyền hình Số (của Đài truyền hình Kỹ thuật số VTC) từ năm 2009 đến năm 2011. 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện dựa trên nền tảng khoa học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, luận văn được nghiên cứu dựa trên kế thừa hệ thống lý thuyết về truyền thông, lý luận về tạp chí liên quan đến đề tài được công bố. Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu gồm định tính và định lượng. Cụ thể, ngoài phương pháp phân tích tài liệu, quan sát thực tế, luận văn sử dụng bảng hỏi để khảo sát đối tượng độc giả của các tạp chí được khảo sát. Cụ thể, tác giả luận văn đã phát ra 110 bảng hỏi dành cho độc giả của Tạp chí truyền hình, thu về 96 phiếu. Bảng hỏi được phát trên internet và trực tiếp tại một số công sở. Trước khi phát bảng hỏi, tác giả luận văn đã có điều 11 tra nhỏ về đối tượng khảo sát, nên chỉ có đối tượng là độc giả của tạp chí truyền hình mới được trả lời bảng hỏi. Đồng thời, luận văn kết hợp phỏng vấn sâu một số chuyên gia như các Tổng biên tập, Trưởng ban biên tập… để có thể mang lại kết quả nghiên cứu khách quan, đa dạng và chính xác nhất. 6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn 6.1 Ý nghĩa lý luận - Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận của truyền thông chuyên biệt và tạp chí chuyên biệt. - Góp phần vào việc hình thành cơ sở lý luận cho dòng tạp chí truyền hình. - Xác định đặc trưng, đặc điểm của dòng tạp chí truyền hình trong mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất của các dòng tạp chí khác. 6.2 Ý nghĩa thực tiễn - Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp cho các ấn phẩm tạp chí truyền hình được khảo sát nâng cao hơn nữa được chất lượng nội dung, tăng sức hấp dẫn với bạn đọc. - Giúp cho lãnh đạo tòa soạn cũng như đội ngũ phóng viên thấy được những yêu cầu phát triển của dòng tạp chí mang tính chuyên biệt cao nhằm phát huy thế mạnh của dòng tạp chí truyền hình, ứng dụng với phương thức làm báo hiện đại. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn bao gồm: phần mở đầu, kết luận và 3 chương nội dung chính: Chương 1: Lý luận chung về tạp chí và tính chuyên biệt trên tạp chí Chương 2: Đặc trưng, đặc thù của dòng tạp chí truyền hình Chương 3 – Kinh nghiệm và giải pháp nâng cao tính chuyên biệt trên các ấn phẩm tạp chí truyền hình 12 Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TẠP CHÍ VÀ TÍNH CHUYÊN BIỆT TRÊN TẠP CHÍ 1.1 Lý luận chung về tạp chí 1.1.1 Khái niệm Tạp chí là một sản phẩm của báo in, ra đời vào thế kỷ XVII, có nguồn gốc ở Pháp. Cho đến nay, vẫn còn tồn tại khá nhiều cách hiểu khác nhau về “tạp chí”. Từ điển Việt Nam phổ thông, do Đào Văn Tập biên soạn, xuất bản năm 1951 (Nhà sách Vĩnh Bảo, SG) định nghĩa: “Tạp chí là tập văn ra có kỳ hạn nhất định, gồm nhiều mục”. [56, tr.139] Còn Từ điển Tiếng Việt của Nxb. Khoa học Xã hội năm 1994 lại định nghĩa: “Tạp chí là xuất bản phẩm định kỳ, đăng nhiều bài của nhiều tác giả khác nhau về một ngành hoạt động nhất định, đóng thành tập”. [50, tr.127] Lại có ý kiến cho rằng: “Trước đây, tạp chí như một cuốn nhật ký ghi chép các sự kiện của tòa án, chính phủ. Ngày nay, tạp chí thường là cơ quan lí luận, học thuật, chuyên sâu về lĩnh vực nào đó nhằm phục vụ người trong ngành. Tính định kỳ của tạp chí dài (tuần, tháng, quý…). Dung lượng của tạp chí lớn để truyền tải được tác phẩm lớn. Tạp chí thường có hai loại: tạp chí mang tính tuyên truyền phổ biến và tạp chí mang tính chuyên ngành”. Xét về nội dung, tạp chí thường là cơ quan ngôn luận mang tính học thuật, lí luận, khoa học của một số tổ chức hay một hiệp hội nào đó để nghiên cứu, trao đổi những vấn đề mang tính chuyên môn, chủ yếu dành cho đối tượng có cùng chuyên môn. Xét về hình thức, tạp chí phải có 5 trang trở lên, là loại ấn phẩm nhỏ hơn báo, đóng thành tập, có bìa, chuyển tải các loại thông tin có tính tổng hợp, chuyên sâu, xuất bản định kỳ ở một địa điểm nhất định, thời gian dài nhất là nửa năm, ít nhất là định kỳ một tuần một lần. 13 Tạp chí in truyền thống khác với báo in ở chỗ tính thời sự của tạp chí thấp hơn nhưng nội dung vấn đề và sự kiện đưa ra phân tích, bình luận lại sâu và đầy đủ hơn. Thông tin của tạp chí là thông tin có tính khái quát và không bị lỗi thời. Tạp chí còn khác báo ở hình thức trình bày và đồ họa. 1.1.2 Lịch sử phát triển tạp chí ở Việt Nam Tạp chí ra đời vào thế kỷ XVII ở Pháp có tên gọi là “Journal”. Hình thức sơ khai của tạp chí như một dạng nhật ký, để ghi lại các phiên họp của quốc hội, nghị viện, các biên bản của tòa án và biên bản của những cuộc họp khác. Dần dần, theo thời gian, văn bản này phát triển thành một tờ tạp chí hoàn chỉnh với tư cách là một loại hình báo chí. Tờ tạp chí đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XX tại Bắc Kỳ. Điều kiện chính trị lúc này hết sức hà khắc, thực dân Pháp đã chiếm toàn bộ Việt Nam. Đội ngũ Tây học ở Bắc Kỳ ít hơn so với Nam Kỳ nên ảnh hưởng của nền văn minh phương Tây ít hơn. Sự phát triển chậm về kinh tế cũng đã gây ít nhiều hạn chế cho hoạt động báo chí lúc này. Thực dân Pháp thấy cần thiết phải có một tờ báo bằng Tiếng Việt nhằm phục vụ cho việc cai trị của mình. Và tờ “Đông Dương tạp chí” đã ra đời, do Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. “Đông Dương tạp chí” (1913-1918) được coi là phụ trương của tờ “Lục tỉnh tân văn”. Lúc đó mỗi tuần ra một số vào thứ 5, gồm 16 trang. Tờ này tiêu biểu cho dòng báo chí thực dân, tuy nhiên cũng có nhiều bài viết thể hiện tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc. “Đông Dương tạp chí” đã có một số cộng tác viên khác tên tuổi như Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Hữu Tiến, Phạm Duy Tốn… “Đông Dương tạp chí” sử dụng nhiều thể loại, chuyên mục bàn về các vấn đề xã hội, kinh tế, thiên văn, điện báo, những bài mang tính tổng luận, tổng hợp, dịch thuật… Tờ tạp chí này đã có những đóng góp vào sự phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt một cách nhuần nhuyễn. Tiếp đó có tờ tạp chí “Nam Phong” (1917-1934) được viết bằng tiếng bản xứ để thực thi chính sách giáo dục và tuyên truyền của thực dân Pháp. Tờ này do 14 Phạm Quỳnh làm chủ bút, dưới sự kiểm duyệt của Marty – Giám đốc Phòng an ninh và chính trị Đông Dương. Đó là mục đích của thực dân Pháp, nhưng trên thực tế, nội dung của tạp chí không hoàn toàn phản động mà cũng tồn tại những điểm tiến bộ. Tạp chí “Nam Phong” có một số chuyên mục như “Luận thuyết”, “Văn Uyển”, “Thời đàm”, “Văn học”… Các bài viết được đăng tải tương đối rộng, đề cập đến nhiều lĩnh vực mang tính khảo cứu, chuyên sâu, có nhiều công trình khảo cứu đặc sắc, giá trị. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tạp chí “Nam Phong” là cuốn bách khoa nguyệt san, đọc “Nam Phong” người ta có thể học hỏi trong đó nền văn minh Tây phương và Đông phương. Giai đoạn 1930-1945, loại hình tạp chí ở Việt Nam khởi sắc với hai tờ tạp chí “Tri Ân” và “Thanh Nghị. “Tri Ân” (1941-1946) là tạp chí của nhóm Bùi Kỳ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Xuân Hãn, Võ Nguyên Giáp, Đặng Thai Mai… chuyên khảo cứu về văn học, sử học, nghiên cứu xã hội Việt Nam truyền thống, ít quan tâm đến vấn đề chính trị, xã hội đương thời. Tạp chí “Thanh Nghị” (1941-1945) tập hợp được những cây bút chủ yếu là trí thức Tây học trẻ tuổi cấp tiến như luật sư Vũ Đình Hòe, Vũ Văn Hiến, Phan Anh, Đinh Gia Trinh…, các nhà khoa học tự nhiên Nguyễn Xiển, Nguyễn Xuân Yêm, Ngụy Nhu Kon Tum… Tạp chí “Thanh Nghị” dày hơn “Tri Tân” chuyên khảo cứu những vấn đề như luật pháp, chính trị học, và các bộ môn khoa học tự nhiên khác. Ngoài những tạp chí nói trên, còn phải kể đến các tạp chí văn học khác như “Tao Đàn” (1939-1940), xuất bản 2 kỳ/ tháng, chủ bút là nhà thơ Tản Đà. Tạp chí của các đảng phái chính trị như “Công hội đỏ” (1929), “Tạp chí Đỏ” (1930), “Búa” (1931), “Cộng sản” (1932) – tạp chí của những tù nhân nhà tù Hỏa Lò, tạp chí “Bôn-xê-vích” (1940)… ; Các tạp chí y khoa như “Phổ biến Y học: (1934), “Bảo mệnh Cẩm nang” (1939); các tạp chí tôn giáo như “Bồ Đề” (1936), “Quan Âm tạp chí” (1938)… Tóm lại, dù được ai thành lập thì tạp chí nào cũng được lợi dụng để cổ vũ tinh thần yêu lịch sử, văn hóa dân 15 tộc. Nội dung tạp chí mang tinh thần độc lập dân tộc, đó cũng là một nhu cầu nóng bỏng của toàn dân lúc đó. Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, xã hội Việt Nam chuyển sang một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do. Sau khi đánh thắng các thế lực để quốc chủ nghĩa xâm lược và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, chế độ áp bức, bóc lột đã bị xóa bỏ trong xã hội ta, nhân dân lao động là người chủ thực sự. Báo chí Việt Nam bước sang thời kỳ lịch sử mới. Báo chí lúc này là tiếng nói của một quốc gia có chủ quyền độc lập, là diễn đàn của nhân dân. Cùng với các loại hình báo chí khác, tạp chí ở Việt Nam cũng có sự phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, và đặc biệt khởi sắc trong thời kỳ đổi mới đất nước (từ năm 1986 đến nay). Trong vòng 10 năm từ 1986 – 1996, số lượng tạp chí đã tăng 267,2%, cụ thể là 110 tạp chí lên 320 đầu tạp chí. Và giai đoạn 1996-2008, tuy chưa có số liệu thống kê cụ thể nhưng con số ước đạt còn nhiều, khoảng hơn 500 đầu tạp chí. Cùng với sự gia tăng về đầu tạp chí thì số lượng bản in tạp chí cũng tăng lên nhanh chóng. Nhiều tạp chí tăng kỳ, tăng trang. Trước kia, thời gian giữa 2 kỳ ra của tạp chí thường từ 2 tháng, 3 tháng, thậm chí tới 6 tháng, thì đến nay, các tạp chí ra 1 tháng 2 kỳ, có tạp chí ra hàng tuần. Ví dụ như “Tạp chí Cộng sản” – cơ quan lí luận và chính trị của Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam – từ chỗ ra 1 kỳ/ tháng hiện nay đã ra 2 kỳ/ tháng và có thêm chuyên sân “Hồ sơ Sự kiện” ấn thành 2 số/ tháng. Nhìn một cách tổng quát, hệ thống mạng lưới tạp chí thuộc các tổ chức Đảng, Nhà nước, Đoàn thể quần chúng ở nước ta hiện nay có thể tạm phân loại như sau: - Tạp chí Chính trị như tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Giáo dục lí luận… - Tạp chí quân sự như các tạp chí Quân đội Nhân dân, Lịch sử quân sự, Huấn luyện… - Tạp chí khoa học như các tạp chí Khoa học Tự nhiên, Khoa học xã hội, Toán học, Vật lí, Triết học, Dân tộc học, Luật học, Cơ khí, Xã hội học, Nghiên cứu Châu Âu… 16 - Tạp chí kinh tế như các tạp chí Thống kê, Vật giá, Tài chính, Thị trường và giá cả, Thương mại… - Tạp chí văn hóa – xã hội, nghệ thuật, giải trí như tạp chí Văn nghệ Quân đội, Điện ảnh Kịch trường, Sóng nhạc, Truyền hình, Đẹp, Thời trang trẻ, Người đẹp Việt Nam, Thế giới Phụ nữ, Hạnh phúc Gia đình, Mỹ phẩm, Tiếp thị Gia đình, Thế giới Văn hóa… - Tạp chí khoa học kỹ thuật như tạp chí Giao thông vận tải, Cầu đường, Kiến trúc… - Tạp chí y tế, giáo dục như các tạp chí Y học Việt Nam, Nội khoa, Ngoại khoa, Thuốc và sức khỏe, Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Giáo dục & Thời đại. - Tạp chí chỉ đạo hướng dẫn quản lí nghiệp vụ, chuyên ngành như tạp chí Thanh tra, Pháp lý, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng, Kiểm sát, Bảo hiểm xã hội… - Tạp chí đối ngoại làm công tác tuyên truyền tới độc giả nước ngoài, phát hành bằng nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, như các tạp chí Femmes Vietnam, Women of Vietnam Review... 1.1.3 Chức năng và nhiệm vụ của tạp chí Trước hết cần khẳng định rằng, tạp chí cũng như báo in ở Việt Nam ngày nay đều là thứ vũ khí, công cụ trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước. Tạp chí cũng như báo chí có nhiệm vụ truyền đạt, phổ biến sâu rộng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào quần chúng, động viên, hướng dẫn và tổ chức quần chúng thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách đó; đấu tranh trên mặt trận ngôn luận, chống lại mọi luận điệu, âm mưu và hành động phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, phản ánh trung thực nguyện vọng và kinh nghiệm của quần chúng. Tạp chí còn có chức năng riêng biệt so với báo in như sau: 17 - Tạp chí chú trọng truyền bá kiến thức lý luận cần thiết cho cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, các ngành, các giới, các địa phương, giúp họ nắm chắc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để dựa vào đó động viên, tổ chức, hướng dẫn quần chúng thực hiện. - Trang bị kiến thức học thuật mới, củng cố, mở rộng và nâng cao kiến thức khoa học để vận dụng ngày càng tốt hơn vào các hoạt động và nghiên cứu nhằm phục vụ đắc lực cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Như vậy, có thể thấy trong khi cố gắng thực hiện các chức năng chung của báo chí, tạp chí còn phải coi trọng chức năng xây dựng và tuyên truyền lý luận, dự báo khoa học. Do đó, loại thông tin có ý nghĩa quan trọng bậc nhất của các loại tạp chí, đặc biệt là tạp chí nghiên cứu khoa học, chính là thông tin lý luận, thông tin khoa học. Vì đặc điểm và chức năng riêng biệt đó nên hiệu quả của tạp chí không nhất thiết phải tính bằng số lượng độc giả. Sự hấp dẫn của tạp chí chủ yếu ở lượng thông tin và giá trị khoa học của nó, chứ không phải bằng lối hành văn hấp dẫn, bóng bẩy. Nhiệm vụ của tạp chí còn tùy thuộc vào nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ khoa học của ngành, cơ quan, lĩnh vực hoạt động xã hội mà tạp chí đó tham gia. Nhưng về cơ bản, không thể không chú ý tới những nhiệm vụ cốt lõi sau: - Nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học, phổ cập tri thức và tổng kết thực tiễn; khảo sát và phản ánh thực tế, giúp làm sáng tỏ lĩnh vực và phương hướng của tạp chí đã xác định. - Hướng dẫn tư tưởng, chủ trương, nghiệp vụ thông tin bao gồm thông tin khoa học trong nước, nước ngoài và những hoạt động lĩnh vực, ngành. Cho dù thuộc lĩnh vực nào và có những nhiệm vụ cụ thể ra sao thì tờ tạp chí cũng là vũ khí sắc bén của Đảng và Nhà nước trên mặt trận tư tưởng và công tác tổ chức, là “người chiến sĩ” trong “đội quân xung kích của Đảng trên mặt trận tư tưởng”. 18 1.2 Một số vấn đề về tính chuyên biệt trên tạp chí 1.2.1 Xu hướng chuyên biệt hóa trong các loại hình truyền thông tại Việt Nam nói chung Trong cuốn “Báo Chí Hiện Đại Nước Ngoài: Những Quy Tắc Và Nghịch Lý” của tác giả: X.A. Mikhailốp có viết: “Trong điều kiện toàn cầu hóa không gian thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng thực hiện mạnh hơn quá trình phân hóa và chuyên biệt hóa, tạo cơ hội cho những tổ chức ấy tìm được vị trí xã hội của mình, hướng tới một tầng lớp dân cư hoàn toàn xác định, tác động hiệu quả đến người đọc, người nghe và người xem”. [48, tr.98] Trên thế giới khái niệm truyền thông chuyên biệt đã được nhắc đến từ cuối thập niên XX. Trong chuyên khảo Báo chí chuyên biệt, một loại hình đang lớn mạnh (Une presse quy monte: la pressep spésialiseé, Paris, 1974, của tác giả Jacques Mosseau) được Th.s Phạm Thị Lan dịch và đăng tải trên cuốn Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, 2008, có định nghĩa như sau: “báo chí chuyên biệt là những ấn phẩm hướng tới một nhóm công chúng nhất định, có những đặc điểm, những mối quan tâm chung (cùng độ tuổi, giới tính, có chung mối quan tâm, cùng sở thích…) hoặc xoay quanh một lĩnh vực, một chủ đề” [24, tr.48]. Theo đó, Jacques Mosseau chia báo chí chuyên biệt thành hai nhánh: các ấn phẩm báo chí chuyên biệt theo đối tượng, các ấn phẩm báo chí chuyên biệt theo nội dung, chủ đề. Tại Việt Nam, khái niệm chuyên biệt đã được dùng trong nhiều lĩnh vực ở Việt Nam. Tuy nhiên, truyền thông chuyên biệt đã được định hình và ngày càng phát triển ở Việt Nam với sự ra đời và phát triển của một loạt kênh truyền hình, phát thanh, báo và tạp chí theo hướng chuyên biệt. Từ các quan điểm về báo chí, truyền thông chuyên biệt như trên, cũng như căn cứ vào thực tế phát triển của truyền thông đại chúng Việt Nam hiện nay, theo tác giả luận văn thì: “Tính chuyên biệt trên báo chí truyền thông nói 19 chung được hiểu là một phương thức trong đó một ấn phẩm báo chí chỉ tập trung vào một lĩnh vực cụ thể của đời sống, nhằm vào một lượng đối tượng công chúng xác định, cụ thể”. Trong điều kiện toàn cầu hóa thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng thực hiện mạnh hơn quá trình phân hóa và chuyên biệt hóa, tạo cơ hội cho những tổ chức ấy tìm được vị trí xã hội của mình, hướng đến một tầng lớp dân cư hoàn toàn xác định, tác động có hiệu quả đến người đọc, người nghe và người xem. Thế mạnh của quá trình chuyên biêt hóa truyền thông: Đó là nó cho phép nâng cao hiệu quả của các bài vở của báo chí, đài phát thanh và truyền hình, sử dụng phương tiện sẵn có với hiệu quả cao nhất. Quá trình phân hóa giúp thiết lập ra được các ấn phẩm chuyên sâu vào một lĩnh vực, giúp cho công chúng có thể lựa chọn dễ dàng ấn phẩm phù hợp. Trong tương lai, việc khu biệt đối tượng và lựa chọn cho mình một lĩnh vực để kinh doanh truyền thông là một xu hướng tất yếu. 1.2.1.1 Truyền hình Hàng chục kênh truyền hình ra đời trong 5 năm (2005-2010). Cũng trong 5 năm này tất cả các kênh truyền hình mới xuất hiện đều là các kênh truyền hình chuyên biệt. Đặc biệt trong năm 2010, trung bình mỗi tháng có một kênh truyền hình chuyên biệt ra đời. Thực tế này đã thể hiện rõ xu hướng chuyên biệt hóa của ĐTH Việt Nam hiện nay. Động lực trực tiếp dẫn tới sự ra đời của các kênh truyền hình chuyên biệt đó là sự phát triển mạnh mẽ của truyền hình trả tiền với sự tham gia của các công ty, trung tâm truyền hình cáp, đài truyền hình kỹ thuật số. Tóm lại, chuyên biệt hóa trong truyền hình cũng là cách tốt nhất để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khán giả với khả năng “đào sâu” thông tin , khai thác sâu các vấn đề đáp ứng những yêu cầu thông tin cụ thể, chi tiết của người xem. Với các đài truyền hình, trung tâm truyền hình cáp, các kênh 20 truyền hình chuyên biệt còn đem lại nhiều lợi ích về kinh tế, nhiều thuận lợi cho quá trình xây dựng thương hiệu trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 1.2.1.2 Phát thanh Ngoài kênh VOV1, và VOV2 là kênh tổng hợp thời sự chính trị và văn hóa xã hội thì các kênh còn lại của Đài đều là những kênh chuyên biệt phục vụ nhóm đối tượng riêng. Đó là: VOV 3 - Kênh âm nhạc, thông tin và giải trí; VOV 4 - Kênh dành cho đồng bào dân tộc ít người; VOV 5 - Kênh dành cho cộng đồng người nước ngoài ở Việt Nam bằng 12 thứ tiếng; VOV 6 - Kênh dành cho người Việt Nam và người nước ngoài ở các nước trên thế giới; VOV-GT - Kênh thông tin giao thông. Có thể nói, xu hướng chuyên biệt hóa cũng là xu hướng được nhà Đài đầu tư và hướng đến. 1.2.1.3 Báo mạng Báo mạng là loại hình báo chí mới xuất hiện tại Việt Nam trong thời gian gần đây. Xu hướng chuyên biệt hóa trên báo mạng vì thế cũng chưa thực sự phát triển. Các trang báo mạng nổi tiếng và có uy tín tại Việt Nam lại là những trang tin tức tổng hợp như VietnamNet, VnExpress, Dantri… Các trang web chuyên biệt dành riêng cho một loại đối tượng cũng xuất hiện rất nhiều như: Afamily.vn (Chuyên trang phụ nữ trẻ và gia đình), Bongda.com.vn (Chuyên trang bóng đá, thể thao)… Tuy nhiên đây lại là những trang thông tin điện tử, không phải là trang báo mạng chính thống. Những tin tức trên trang này mặc dù rất chuyên biệt, tuy nhiên không đủ tin tưởng và uy tín. Chính vì vậy xu hướng chuyên biệt trên báo mạng vẫn là một xu hướng mới, chưa phát triển như truyền hình và phát thanh. 1.2.1.4 Báo in Mặc dù ra đời lâu nhất trong các loại hình báo chí, tuy nhiên dòng báo in chuyên biệt vẫn xuất hiện ít hơn rất nhiều so với truyền hình và phát thanh. 21 Các tờ báo in nổi tiếng, số lượng phát hành cao lại chủ yếu là những tờ báo mang tin tức tổng hợp như Tuổi trẻ, Tiền phong, Thanh Niên…, còn các tờ báo chuyên biệt mà thành công chỉ có thể kể đến trên “đầu ngón tay” như: Bóng đá, Thể thao, Sinh viên Việt Nam… Như vậy, so với tiềm năng phát triển của báo in thì với một số lượng báo in chuyên biệt ít như vậy thì chưa xứng tầm. Có thể do dòng báo in phát triển đến độ chuyên biệt hóa lại chuyển sang dòng tạp chí, chuyên san… phát triển song song cùng cơ quan chủ quản với tờ báo in đó. 1.2.2 Tính chuyên biệt trên các ấn phẩm tạp chí 1.2.2.1 Cơ sở hình thành và phát triển tính chuyên biệt trên tạp chí Theo tư liệu các cuốn “Thư tịch báo chí Việt Nam” của PGS.TS Tô Huy Rứa, “Lược sử báo chí Việt Nam” của tác giả Nguyễn Việt Chức, “Lịch sử báo chí Việt Nam” của PGS.TS Vũ Quang Hưng chủ biên thì tờ “Đông Dương tạp chí” ra số 1 ngày 15/5/1913 được coi là tờ báo quốc ngữ mang tính chất tạp chí đầu tiên. Qua nhiều công trình nghiên cứu về báo, tạp chí ở Việt Nam đã chỉ ra rằng báo chí chuyên biệt Việt Nam đã xuất hiện cách đây khá lâu. Trong bài viết Toàn cảnh báo, tạp chí dành cho nữ giới (Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập V, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005), tác giả Đinh Hường đã thống kê 10 tờ báo, tạp chí dành cho phụ nữ xuất bản trước cách mạng tháng Tám ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Đó là các tờ báo như Nữ giới chung (1918), Phụ nữ thời đàm (1930-1933), Phụ nữ tân văn (1929-1934), Nữ công tạp chí (1936- 1938), Nữ lưu (1936-1938), Việt Nữ (1937), Phụ nữ (1938-1939), Nữ giới (1938- 1939), Đàn bà (1939-1944), Bạn gái (1941)… Giai đoạn trước 1945 cũng là giai đoạn dòng tạp chí chuyên biệt về cách mạng của TW Đảng phát triển mạnh: Tạp chí Đỏ (5/8/1930), Tạp chí Cộng sản (1931), Tạp chí Bôn-sê-vich (6/1934)… Sau 1945, dòng tạp chí cách mạng này tiếp tục phát triển như: Tạp chí Sinh hoạt nội bộ (1947), Tạp 22

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net