Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2005

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2005

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Xuân Hải Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2005 Luận văn ThS. Lịch sử: 60.22.56 Nghd. : PGS.TS. Ngô Đăng Tri 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Kinh tế dich vụ là ngành kinh tế cung ứng các dịch vụ trong các lĩnh vực sản xuất vật chất, văn hoá, tinh thần, có vai trò và tác dụng rất lớn đối với sự phát triển kinh tế, xã hội. Trong thời kỳ đất nƣớc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quán triệt đƣờng lối, định hƣớng phát triển kinh tế dịch vụ theo hƣớng đa dạng hoá, mở rộng thị trƣờng tiêu dùng các sản phẩm dịch vụ của Đảng, các ngành kinh tế dịch vụ đã đáp ứng tốt nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống văn hoá - xã hội của nhân dân. Trong những năm 1995-2005, giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ trung bình tăng trên 7,5%/năm. Trong cơ cấu nền kinh tế, tỷ trọng ngành kinh tế dịch vụ ngày càng tăng, đến năm 2005, tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP chiếm 38,1%(1). Đƣợc tái lập từ năm 1997, cho đến nay, tỉnh Vĩnh Phúc đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Phát huy ƣu thế là một tỉnh cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, gần sân bay Nội Bài, sau 8 năm, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, kinh tế Vĩnh Phúc đã đạt đƣợc những thành tựu vƣợt bậc, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hƣớng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Từ một tỉnh nghèo sau khi tái lập, hiện nay Vĩnh Phúc đã vƣơn lên thành một trong những địa phƣơng có tốc độ phát triển kinh tế cao nhất cả nƣớc. Trong quá trình phát triển, các ngành kinh tế dịch vụ của Vĩnh Phúc đã tạo cơ sở, nền tảng quan trọng thúc đẩy cả nền kinh tế phát triển và bản thân ngành kinh tế dịch vụ cũng đóng góp vào sự tăng trƣởng nhanh của nền kinh tế. Giá trị (1) Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP chiếm 41%; tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 20,9%. 5 sản xuất của các ngành dịch vụ trên địa bàn trong những năm 1997-2005 trung bình tăng 13,5%/năm. Vì vậy, nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với việc xây dựng, phát triển các ngành kinh tế dịch vụ trên địa bàn sau khi tỉnh đƣợc tái lập là điều cần thiết. Hoạt động kinh tế dịch vụ ở Vĩnh Phúc là tiêu biểu cho nhiều tỉnh, thành trong cả nƣớc, góp phần làm sáng tỏ về sự lãnh đạo của Đảng bộ trên lĩnh vực kinh tế. Thực tiễn tăng trƣởng kinh tế của nhiều quốc gia đã minh chứng ngành kinh tế dịch vụ có vai trò quan trọng. Vĩnh Phúc là một tỉnh giàu tiềm năng, lợi thế để phát triển các ngành kinh tế dịch vụ. Nghiên cứu hoạt động kinh tế dịch vụ ở Vĩnh Phúc nhằm góp thêm những căn cứ thực tiễn giúp lãnh đạo có thêm cơ sở để hoạch định chính sách phát triển kinh tế của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu cũng nhằm hiểu rõ những đặc điểm, thế mạnh và định hƣớng phát triển của tỉnh. Những kinh nghiệm về phát triển kinh tế dịch vụ ở Vĩnh Phúc sẽ mang lại nhiều điều bổ ích trong xây dựng và phát triển kinh tế của tỉnh và các địa phƣơng khác trong cả nƣớc. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2005” làm luận văn thạc sĩ Lịch sử chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các ngành kinh tế nói chung, kinh tế dịch vụ nói riêng đã có những bƣớc phát triển mạnh. Vì vậy, việc nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế dịch vụ trở thành đề tài hấp dẫn đƣợc nhiều ngƣời quan tâm. Trên phạm vi cả nƣớc đã có nhiều công trình của 6 các nhà khoa học đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Vấn đề kinh tế dịch vụ Vĩnh Phúc cũng có một số công trình nghiên cứu. Có thể chia thành 3 nhóm công trình sau: Nhóm thứ nhất là các công trình chung, tiêu biểu là các cuốn sách: Những nguyên tắc Lêninít trong công tác Đảng lãnh đạo xây dựng kinh tế (Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội 1981); Đoàn Duy Thành: Đảng lãnh đạo kinh tế và đảng viên làm kinh tế (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002); Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004); Nguyễn Minh Tú: Việt Nam trên chặng đường đổi mới và phát triển kinh tế (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002) v.v. Những tác phẩm này chủ yếu đề cập đến quan điểm, chủ trƣơng, đƣờng lối lãnh đạo xây dựng phát triển các ngành kinh tế của Đảng, trong đó có nội dung về lãnh đạo phát triển kinh tế dịch vụ, một vấn đề rất cần thiết mà luận văn có thể kế thừa đƣợc khi giải quyết đề tài. Nhóm thứ hai là những sách chuyên luận, chuyên khảo về vấn đề phát triển kinh tế, kinh tế dịch vụ nhƣ: Nguyễn Đình Hƣơng: Đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam (Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1997); Bùi Tiến Quý: Phát triển và quản lý nhà nước về kinh tế dịch vụ (Nhà xuất bản Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 2000); Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang Việt, Trần Vân: Kinh tế Việt Nam đổi mới: Những phân tích và đánh giá quan trọng (Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội, 2002); Đỗ Hoài Nam (chủ biên): Một số vấn đề phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay, (Nhà xuất bản Thế giới, 2005) v.v. Nhóm công trình này đã cung cấp cho đề tài tƣ liệu và sự nhìn nhận mang tính khái quát về xây dựng, phát triển kinh tế, trong đó có lĩnh vực kinh tế dịch vụ. Nhóm thứ ba là những công trình trực tiếp liên quan đến lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế nói chung, các ngành kinh tế dịch vụ nói riêng 7 ở Vĩnh Phúc nhƣ: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (1928-2007), (xuất bản năm 2005); cuốn sách: Vĩnh Phúc - đất và người thân thiện (Nhà xuất bản Thông tấn, 2006); Hà Vũ Tuyến: Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế thời kỳ 1997-2000 (Luận văn cử nhân bảo vệ tại khoa Lịch Sử trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tháng 6-2003) và một số sách lịch sử Đảng bộ các huyện, thị của Vĩnh Phúc. Đây là những công trình rất quan trọng, cung cấp cho tác giả những số liệu, nhận định, đánh giá về thực trạng phát triển kinh tế ở Vĩnh Phúc. Nhìn chung, các nhóm công trình nói trên là rất cần thiết đối với việc thực hiện đề tài, tác giả có thể kế thừa đƣợc nhiều nội dung quan trọng, đặc biệt là vấn đề tƣ liệu. Tuy nhiên, chƣa có một công trình nào đề cập đến vấn đề nội dung của đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Mục đích nghiên cứu của luận văn là trình bày một cách hệ thống quá trình Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2005. Thông qua đó, nêu lên những thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong những năm 1997-2005. - Nhiệm vụ: Sƣu tập và hệ thống hoá các tƣ liệu lịch sử liên quan đến vấn đề Đảng bộ Vĩnh Phúc lãnh đạo phát triển kinh tế dịch vụ Vĩnh Phúc trong những năm 1997-2005, trên cơ sở đó trình bày sự lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với vấn đề này. Nêu lên những thành tựu, hạn chế trong lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong những năm 1997-2005 8 và rút ra một số kinh nghiệm để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế dịch vụ ở Vĩnh Phúc hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những nhận thức, chủ trƣơng, sự chỉ đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong lĩnh vực xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ và những thành tựu, hạn chế, kinh nghiệm trên lĩnh vực này của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong những năm 1997-2005. - Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: lĩnh vực kinh tế dịch vụ bao gồm rất nhiều ngành: thƣơng mại, tài chính, ngân hàng, du lịch, bƣu chính - viễn thông, dịch vụ vận tải, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ pháp lý, dịch vụ khoa học công nghệ, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ thể dục - thể thao,… Nội dung của luận văn chỉ tập trung đi vào phân tích làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Vĩnh Phúc đối với việc xây dựng, phát triển 4 ngành kinh tế dịch vụ quan trọng: thƣơng mại, du lịch, tín dụng ngân hàng, bƣu chính - viễn thông ở Vĩnh Phúc cũng nhƣ những kết quả, kinh nghiệm trong sự lãnh đạo phát triển các ngành này. Về thời gian: nghiên cứu sự lãnh đạo, những kết quả, kinh nghiệm đó từ khi tỉnh Vĩnh Phúc đƣợc tái lập (1997) cho đến năm 2005. Về không gian: nghiên cứu 4 ngành kinh tế dịch vụ lớn nói trên tại địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc bao gồm các thị xã, huyện, xã trong những năm 1997-2005. 9 5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của việc thực hiện luận văn là dựa vào những quan điểm lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế dịch vụ nói riêng. - Nguồn tài liệu: Quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các nguồn tài liệu sau: các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nƣớc, các văn kiện, báo cáo của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc, Uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng tài liệu của các công trình đã trình bày ở trên. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn chủ yếu sử dụng phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp lôgíc, phƣơng pháp lịch sử kết hợp với phƣơng pháp lôgíc. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khác nhƣ: phƣơng pháp phân tích, so sánh kết hợp với phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp khảo sát thực tế để đánh giá tình hình với những số liệu đã đƣợc khẳng định. 6. Đóng góp của luận văn Trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2005 của Đảng bộ Vĩnh Phúc. Nêu lên một số kinh nghiệm của Đảng bộ Vĩnh Phúc trong lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế dịch vụ những năm 1997- 2005. Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và lịch sử Đảng nói chung trên lĩnh vực lãnh đạo phát triển kinh tế dịch vụ. 10 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng: Chương 1: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 1997 đến năm 2000 Chương 2: Sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc trong xây dựng, phát triển kinh tế dịch vụ từ năm 2001 đến năm 2005 Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu 11 Chương 1 SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC TRONG XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN KINH TẾ DỊCH VỤ TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2000 1.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ DỊCH VỤ VĨNH PHÚC TRƢỚC NĂM 1997 1.1.1. Vài nét về tỉnh Vĩnh Phúc và Đảng bộ Vĩnh phúc * Về tỉnh Vĩnh Phúc Vĩnh Phúc là một tỉnh trung du, nằm trong vùng đệm chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ và rừng núi phía Bắc, từ đây có thể đi xuống thành phố biển Hạ Long hay ngƣợc lên tận biên giới Việt - Trung, Việt - Lào chỉ khoảng 200 km. Vĩnh Phúc nằm ở tả ngạn, gần đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng, trong khoảng 21 độ 10 phút đến 21 độ 35 phút, 105 độ 20 phút đến 105 độ 49 phút kinh Đông. Phía Đông giáp thủ đô Hà Nội và tỉnh Thái Nguyên; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Nam giáp thủ đô Hà Nội và tỉnh Hà Tây; phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên. Trong quá trình hình thành và phát triển, vùng đất Vĩnh Phúc đã trải qua nhiều lần thay đổi địa giới và tổ chức hành chính. Thời Văn Lang - Âu Lạc, Vĩnh Phúc thuộc bộ Văn Lang. Thời Bắc thuộc, khi nhà Hán cai trị, nƣớc ta bị chia thành ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Vĩnh Phúc nằm trong huyện Mê Linh, thuộc quận Giao Chỉ. Đến thời nhà Đƣờng cai trị, cả nƣớc bị chia thành 12 châu, lúc này vùng đất Vĩnh Phúc nằm trong địa bàn Phong Châu. Từ sau khi Khúc Thừa Dụ dựng nền tự chủ (năm 905), các triều đại phong kiến Việt Nam đã định lại đơn vị hành chính các địa phƣơng cho 12 phù hợp với yêu cầu quản lý đất nƣớc. Thời nhà Lý, vùng trung du miền núi đƣợc chia thành các châu, trại, đất Vĩnh Phúc khi đó thuộc châu Phong và châu Lâm Tây. Năm 1225, nhà Trần chia đất nƣớc thành các lộ, trấn, phủ, Vĩnh Phúc nằm trong hai lộ Tam Giang và Tam Đái. Sang thế kỷ XV, sau khi Lê Lợi xác lập vƣơng triều Lê vào năm 1428, cả nƣớc đƣợc tổ chức thành đạo, trấn, lộ, phủ, huyện, châu, xã; Vĩnh Phúc nằm trong địa phận hai trấn Sơn Tây và Hƣng Hoá. Đến thời nhà Nguyễn, năm 1821, vua Minh Mạng chia cả nƣớc thành 30 tỉnh, Vĩnh Phúc lúc đó có tên đơn vị hành chính là phủ Vĩnh Tƣờng, trực thuộc tỉnh Sơn Tây. Sau đó, hai huyện Yên Lãng và Yên Lạc đƣợc tách ra đặt thành phủ Vĩnh Tƣờng (tƣơng ứng với địa phận tỉnh Phúc Yên). Dƣới thời Pháp thuộc, ngày 20-10-1890, Toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định thành lập đạo Vĩnh Yên, bao gồm vùng đất của huyện Bình Xuyên và các huyện của phủ Vĩnh Tƣờng: Bạch Hạc, Lập Thạch, Tam Dƣơng, Yên Lạc, Yên Lãng. Đến tháng 4 năm 1891, Toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định bãi bỏ đạo Vĩnh Yên, sáp nhập toàn bộ vùng đất này vào tỉnh Sơn Tây. Tháng 12 năm 1899, trên cơ sở vùng đất của đạo Vĩnh Yên cũ, Toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định thành lập tỉnh Vĩnh Yên, tỉnh lỵ đặt tại làng Tích Sơn (Tam Dƣơng). Ngày 06-10-1901, Toàn quyền Đông Dƣơng ra Nghị định thành lập tỉnh Phù Lỗ, bao gồm các phủ, huyện cắt từ Bắc Ninh sang là phủ Đa Phúc, huyện Kim Anh, huyện Đông Khê và phủ Yên Lãng cắt từ tỉnh Vĩnh Yên sang, tỉnh lỵ đặt tại làng Phù Lỗ (huyện Kim Anh). Đến tháng 02-1904 chuyển về tổng Bạch Trữ (phủ Yên Lãng) và chính thức có tên gọi Phúc Yên. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, chính quyền mới tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính cho phù hợp, theo đó phủ đƣợc đổi thành huyện, xoá bỏ cấp tổng, đặt 13 lại cấp xã (làng hoặc xã cũ đƣợc đặt lại là thôn). Tỉnh Vĩnh Yên lúc đó có 6 huyện là: Vĩnh Tƣờng, Bạch Hạc, Bình Xuyên, Lập Thạch, Tam Dƣơng, Yên Lạc với 352 làng xã. Tỉnh Phúc Yên có 5 huyện là: Đa Phúc, Kim Anh, Yên Lãng, Vĩnh Linh, Đông Anh với 221 làng xã. Nhằm tăng cƣờng sự chỉ đạo phong trào đấu tranh vùng địch hậu, tăng cƣờng lực lƣợng ta về mọi mặt, đƣa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp sang giai đoạn mới, ngày 12-2-1950, Thủ tƣớng Chính phủ ra Nghị định 03/TTg về việc thành lập tỉnh Vĩnh Phúc. Theo đó, tỉnh Vĩnh Phúc đƣợc thành lập trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, địa giới của tỉnh Vĩnh Phúc tiếp tục có sự thay đổi. Năm 1955, huyện Phổ Yên đƣợc tách ra khỏi tỉnh Thái Nguyên và nhập vào Vĩnh Phúc, đến đầu năm 1957, huyện Phổ Yên lại đƣợc trả về Thái Nguyên. Đầu năm 1961, toàn bộ huyện Đông Anh, xã Kim Chung (huyện Yên Lãng) và một số xóm thuộc thôn Đoài, xã Phù Lỗ (huyện Kim Anh) đƣợc tách ra khỏi Vĩnh Phúc, chuyển về thuộc thủ đô Hà Nội. Bƣớc vào thời kỳ miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tháng 1-1968, theo Nghị quyết của Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội, tỉnh Vĩnh Phúc đƣợc hợp nhất với tỉnh Phú Thọ hợp thành tỉnh Vĩnh Phú. Đến tháng 3-1979, tỉnh Vĩnh Phú có biến động lớn về ranh giới hành chính, toàn bộ tỉnh Phúc Yên đƣợc cắt chuyển về thành phố Hà Nội, riêng huyện Mê Linh đến năm 1991 lại tách khỏi Hà Nội trở về Vĩnh Phú. Tháng 11 năm 1996, Quốc hội khoá IX ra Nghị quyết tách tỉnh Vĩnh Phú thành hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Tháng 1-1997, sau 29 năm trải qua nhiều lần tách và nhập, tỉnh Vĩnh Phúc chính thức đƣợc tái lập và đi vào hoạt động. Sau khi tái lập, tỉnh Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên là 1.370,73 km 2, dân số 1,1 triệu ngƣời, với 7 đơn vị hành chính, gồm thị xã Vĩnh Yên và 6 huyện: Lập Thạch, Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc, Bình Xuyên, Tam Dƣơng, Mê 14 Linh(1). Theo số liệu thống kê năm 1998 có khoảng 14 dân tộc anh em sinh sống, trong đó ngƣời Kinh chiếm 98,34%, các tộc ngƣời thiểu số còn lại là Mƣờng, Sán Dìu, Dao, Cao Lan, .... Vĩnh Phúc là tỉnh có lợi thế về vị trí địa lý, liền kề với thủ đô Hà Nội, gần sân bay Quốc tế Nội Bài và nằm trong vùng tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), là địa bàn chuyển tiếp với các tỉnh miền núi phía Bắc và thị trƣờng Trung Quốc rộng lớn. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để Vĩnh Phúc phát triển cả nông nghiệp, công nghiệp và đặc biệt là phát triển các ngành kinh tế dịch vụ, tiến tới xây dựng, phát triển một nền kinh tế toàn diện. Với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên phong phú, cho phép Vĩnh Phúc có thể phát triển nền kinh tế đa dạng, đáp ứng đƣợc nhu cầu của nhân dân trong tỉnh và trao đổi, giao thƣơng với các địa phƣơng khác. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 46,4%, khí hậu nhiệt đới gió mùa, có vùng đất đồi thích hợp với các loại cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao nhƣ chè, sơn, cà phê, là điều kiện tự nhiên lý tƣởng để phát triển ngành nông nghiệp. Vĩnh Phúc còn có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú: mỏ sắt, mỏ thiếc, đá quý ở Tam Đảo, mỏ than ở Lập Thạch, cao lanh dọc sông Lô, … để phát triển công nghiệp khai thác. Từ sự phát triển đó, Vĩnh Phúc sẽ có những điều kiện để đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế dịch vụ. Vĩnh Phúc nằm trên địa bàn chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, là vùng có các điều kiện tự nhiên của 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du, miền núi với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, di tích lịch sử. Đây rõ ràng là điều kiện quan trọng để Vĩnh Phúc phát triển ngành du lịch. (1) Đến nay (2007), tỉnh Vĩnh Phúc có 9 đơn vị hành chính, gồm Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên và 7 huyện: Lập Thạch, Tam Dƣơng, Vĩnh Tƣờng, Yên Lạc, Bình Xuyên, Tam Đảo, Mê Linh. 15 Vĩnh Phúc là tỉnh có truyền thống yêu nƣớc và cách mạng; Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh có truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Những truyền thống quý báu đó đã ảnh hƣởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế của tỉnh trong mọi thời kỳ. Trong giai đoạn hiện nay, sự đồng thuận, nhất trí của Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh là điều kiện quan trọng để Vĩnh Phúc tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế dịch vụ, nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế của cả nƣớc. * Vài nét về Đảng bộ Vĩnh Phúc Phát huy truyền thống cách mạng của quê hƣơng, cha ông, trƣớc khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với sự giúp đỡ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đồng chí ở Hà Nội, trên địa bàn Vĩnh Phúc, phong trào cách mạng theo khuynh hƣớng vô sản đã sớm xuất hiện và diễn ra rất mạnh mẽ. Mặc dù chƣa thành lập đƣợc chi bộ, nhƣng với sự hoạt động, tuyên truyền của hai đảng viên sinh hoạt tại Thành bộ Hà Nội, nhiều thanh niên yêu nƣớc đƣợc tuyên truyền, giác ngộ, đƣợc kết nạp vào các tổ chức quần chúng của Đảng nhƣ: Nông hội đỏ, Thanh niên Cộng sản đoàn, Phụ nữ giải phóng, Sinh hội đỏ. Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) đến năm 1938 là những năm xây dựng cơ sở đầu tiên của Đảng bộ với sự ra đời của các chi bộ đầu tiên trên địa bàn tỉnh: chi bộ đồn điền Đa Phúc; chi bộ đồn điền Tam Lộng, chi bộ Vĩnh Tƣờng. Với sự lãnh đạo của những chi bộ đó, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dƣơng, phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp đòi quyền dân sinh, dân chủ đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp từ thị xã đến nông thôn với nhiều hình thức đấu tranh phong phú và đa dạng trên địa bàn hai tỉnh Phúc Yên và Vĩnh Yên. 16 Để tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng ở các địa phƣơng và thống nhất chỉ đạo các cơ sở đảng và tổ chức quần chúng đồng thời dựa vào mối quan hệ gắn bó giữa phong trào cách mạng hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, tháng 3-1940, Ban cán sự liên tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên (lúc đó gọi là Ban vận động liên tỉnh) đƣợc thành lập. Tuy nhiên, trƣớc những biến chuyển của tình hình mới, tháng 8-1940, Ban Cán sự tỉnh Vĩnh Yên đƣợc ra đời, tiếp sau đó Ban cán sự tỉnh Phúc Yên cũng đƣợc thành lập vào cuối năm 1941. Do đó, Ban cán sự liên tỉnh Vĩnh Yên, Phúc Yên không tồn tại nữa. Đây là mốc đánh dấu bƣớc chuyển biến về chất trong công tác xây dựng Đảng và phong trào cách mạng của tỉnh. Từ đây, dƣới sự lãnh đạo thống nhất của một cơ quan lãnh đạo cấp tỉnh là Ban cán sự tỉnh, các phong trào đấu tranh chính trị rộng lớn đã diễn ra có tổ chức hơn. Qua những cuộc đấu tranh đó, Đảng bộ đã xây dựng đƣợc đội quân chính trị rộng lớn ở khắp thành thị và nông thôn trong tỉnh, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc đƣợc thành lập và không ngừng mở rộng. Khi thời cơ đến đã lãnh đạo họ vùng lên đấu tranh, cùng với nhân dân cả nƣớc tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, giành chính quyền về tay nhân dân. Bƣớc vào thời kỳ độc lập, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dƣơng, Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên đã đẩy mạnh công cuộc xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng; đấu tranh chống quân Tƣởng và tay sai; không ngừng xây dựng lực lƣợng, vừa kháng chiến kiến quốc, bƣớc đầu chống địch càn quét. Cùng với sự ra đời của tỉnh Vĩnh Phúc (ngày 12-2-1950), trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc cũng chính thức đƣợc thành lập. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Vĩnh Phúc đã giành đƣợc những thắng lợi to lớn nhƣ trận Khoan Bộ trong chiến dịch Việt Bắc - Thu Đông năm 1947, trận Xuân Trạch năm 1950 và trận Núi Đanh năm 1951. 17 Đặc biệt, Đảng bộ và nhân dân Vĩnh Phúc đã góp phần quan trọng cùng quân dân cả nƣớc giành thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau khi miền Bắc đƣợc giải phóng hoàn toàn, Đảng bộ Vĩnh Phúc đã lãnh đạo nhân dân tiến hành khôi phục kinh tế, hoàn thành cải cách ruộng đất và bƣớc đầu phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội theo hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, nhân dân Vĩnh Phúc đã vừa sản xuất, vừa chiến đấu, góp phần đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, cùng với nhân dân miền Bắc, Vĩnh Phúc đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, đầu năm 1968, hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ đƣợc hợp nhất lấy tên là tỉnh Vĩnh Phú. Cùng với quá trình hợp nhất tỉnh, hai Đảng bộ cũng đƣợc tiến hành hợp nhất lấy tên là Đảng bộ Vĩnh Phú. Sau khi đất nƣớc hoàn toàn đƣợc giải phóng, Đảng bộ và nhân dân hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ trƣớc đây với nỗ lực xây dựng tỉnh Vĩnh Phú đã cùng nhân dân cả nƣớc đạt đƣợc những thành tựu to lớn trong công cuộc khôi phục phát triển kinh tế. Với tinh thần chỉ đạo của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo nhân dân bƣớc đầu thực hiện thành công công cuộc đổi mới trên địa bàn tỉnh. Bƣớc vào thời kỳ đất nƣớc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngày 1-1-1997, tỉnh Vĩnh Phú đƣợc tách ra làm hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc. Theo đó, sau gần 29 năm sáp nhập, Đảng bộ Vĩnh Phúc lại đƣợc tái lập. Thực tế quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng và xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội trong những thập kỷ qua của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc là sự vận dụng một cách sáng tạo đƣờng lối, chủ trƣơng, chiến lƣợc và sách 18 lƣợc của Đảng vào thực tiễn địa phƣơng qua từng thời kỳ lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ đã ghi nhận sự cống hiến và hy sinh của nhiều tấm gƣơng cán bộ đảng viên nhƣ: Lê Xoay, Lê Thanh, Trần Cừ, Nguyễn Viết Xuân, Kim Ngọc... Đồng thời, quá trình đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, xứng đáng với lòng tin cậy của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Bƣớc vào những năm đầu thế kỷ XXI, phát huy truyền thống yêu nƣớc và cách mạng của quê hƣơng, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc đã lãnh đạo nhân dân bƣớc đầu thu đƣợc nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế, từng bƣớc thực hiện thắng lợi mong muốn của chủ tịch Hồ Chí Minh khi Ngƣời về thăm tỉnh: phải làm cho Vĩnh Phúc thành một trong những tỉnh giàu có, phồn thịnh nhất ở miền Bắc nƣớc ta. 1.1.2. Tình hình kinh tế dịch vụ Vĩnh Phúc trƣớc năm 1997 Sau 10 năm cả nƣớc cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt đƣợc những thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nền kinh tế, các lĩnh vực xã hội lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc, trong khi đó, các thế lực đế quốc tăng cƣờng bao vây cấm vận, thực hiện âm mƣu “Diễn biến hoà bình” làm cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta càng thêm khó khăn. Trong bối cảnh đó, từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng chính thức khởi xƣớng công cuộc đổi mới toàn diện đất nƣớc, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế: chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Đồng thời, Đại hội đã nêu ra phƣơng hƣớng, mục tiêu chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội 19 trong 5 năm (1986-1990). Sau 5 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới trong lĩnh vực phát triển kinh tế, đất nƣớc ta đã thu đƣợc những thành tựu bƣớc đầu hết sức quan trọng, góp phần từng bƣớc đƣa nƣớc nƣớc ta thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng; ổn định đƣợc thị trƣờng trong nƣớc, từng bƣớc hƣớng tới xuất khẩu. Nhằm bổ sung, hoàn thiện và phát triển đƣờng lối đổi mới kinh tế đƣợc vạch ra từ Đại hội VI, trong hoàn cảnh mới, Đảng ta đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000” trong Đại hội lần thứ VII (6-1991) của Đảng. Thực hiện đƣờng lối đổi mới đất nƣớc, quán triệt quan điểm, chủ trƣơng phát triển nền kinh tế thị trƣờng của Đại hội VI, VII, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú, nền kinh tế trên địa bàn Vĩnh Phúc trƣớc khi tái lập đã có những bƣớc chuyển biến rất mạnh mẽ, bƣớc đầu thu đƣợc những kết quả quan trọng trên tất cả các ngành kinh tế, trong đó có ngành kinh tế dịch vụ. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm (1991- 1995) là 7,35%, riêng năm 1996 tăng 8,3% so với năm 1995. Giá trị sản lƣợng công nghiệp xây dựng tăng bình quân 16,25%. Trong đó, công nghiệp địa phƣơng tăng bình quân 10,7%; công nghiệp Trung ƣơng trên địa bàn tăng bình quân 16,7%; công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 11,35%. Cơ cấu nền kinh tế có sự chuyển dịch theo hƣớng hợp lý, tăng tỷ trọng công nghiệp xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - lâm nghiệp. Tỷ trọng GDP trong ngành nông lâm nghiệp từ 59,2% năm 1990 giảm xuống 51% năm 1995 và 48,27% năm 1996. Ngành công nghiệp - xây dựng từ 8,4% năm 1990 tăng lên 13% năm 1995 và 13,98% năm 1996. Ngành dịch vụ từ 32,4% năm 1990 tăng lên 36% năm 1995 và 37,75% năm 1996. 20 Hoạt động thương mại Hoạt động thƣơng mại với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế đạt đƣợc những kết quả bƣớc đầu trong lĩnh vực lƣu thông hàng hoá và dịch vụ. Thƣơng nghiệp xã hội phát triển mạnh, thị trƣờng sôi động, hàng hoá đa dạng, phong phú, lƣu thông thuận lợi, đáp ứng đƣợc nhu cầu tiêu thụ của nhân dân. Năm 1995, giá trị ngành thƣơng nghiệp tăng gấp 10 lần so với năm 1990. Tổng mức bán lẻ hàng hoá xã hội năm 1996 là 1.225 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 1995. [56; 18] Thực hiện chủ trƣơng xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, hƣớng vào xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế, hoạt động kinh tế trên địa bàn Vĩnh Phúc đã bƣớc đầu hƣớng vào xuất khẩu. Tuy nhiên, vào đầu những năm 90, do ảnh hƣởng của tình hình chính trị ở Liên Xô và Đông Âu nên hoạt động xuất khẩu của tỉnh gặp nhiều khó khăn. Bƣớc vào những năm 1993-1996, hoạt động xuất khẩu đã tìm đƣợc thị trƣờng mới với các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ nhƣ xuất khẩu lạc nhân, hoa quả hộp, thịt,… Do vậy, kim ngạch xuất khẩu bƣớc đầu có sự phát triển. Hoạt động xuất khẩu lao động bƣớc đầu có bƣớc phát triển với số lƣợng lao động ra nƣớc ngoài làm việc đƣợc tăng lên qua từng năm. Lĩnh vực kinh tế du lịch Do có nhiều tiềm năng, lợi thế về phát triển du lịch nên trƣớc khi tái lập tỉnh, hoạt động du lịch trên địa bàn Vĩnh Phúc đã bƣớc đầu có sự phát triển. Kinh doanh du lịch đã tập trung vào khai thác các loại hình du lịch nhƣ du lịch nghỉ dƣỡng, du lịch sinh thái, du lịch lễ hội,… Chất lƣợng dịch vụ tại khu, điểm du lịch, vui chơi giải trí bƣớc đầu đáp ứng đƣợc nhu cầu của khách du lịch. Doanh thu từ du lịch cũng nhƣ tổng số lƣợt khách đến du lịch trên địa bàn đều tăng lên qua từng năm. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số khu du lịch tập trung nhƣ: Tam Đảo, Tây Thiên, Đại Lải. 21 Ngành bưu chính - viễn thông Nhằm tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế, các lĩnh vực văn hoá - xã hội, Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú đã chỉ đạo đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế dịch vụ, trong đó tập trung phát triển dịch vụ bƣu chính - viễn thông. Do đó, trƣớc khi đƣợc tái lập, hoạt động bƣu chính - viễn thông có bƣớc phát triển khá, bƣớc đầu đáp ứng đƣợc nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân. Mạng thông tin liên lạc tuy chƣa hoàn chỉnh nhƣng đã phủ đƣợc 128/148 xã trong toàn tỉnh. Đến ngày 30-6-1997, toàn tỉnh có 5.992 máy điện thoại, đạt gần 0,55 máy/100 ngƣời dân [56; 19]. Dịch vụ tín dụng, ngân hàng Hoạt động tín dụng ngân hàng có những chuyển biến tích cực về củng cố, xây dựng tổ chức, chấn chỉnh nghiệp vụ, triển khai nhanh nguồn vốn và mở rộng đối tƣợng, thành phần cho vay, bƣớc đầu có sự cạnh tranh giữa cá nhân hàng thƣơng mại và quỹ tín dụng nhân dân, làm tăng thêm tính năng động của các tổ chức tín dụng, khai thác tốt hơn các nguồn thu, tăng chi cho đầu tƣ phát triển. Nhiều huyện đã khai thác đƣợc các nguồn lực đƣa vào đầu tƣ xây dựng cơ sở hạ tầng. Công tác huy động vốn, mở rộng hoạt động dịch vụ kiều hối, thu tiền gửi ngoại tệ, tập trung cho vay các cơ sở kinh tế kinh doanh của ngân hàng đƣợc thực hiện có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, hộ gia đình, với ngƣời nghèo từng bƣớc đƣợc nâng lên. Việc làm thí điểm quỹ tín dụng nhân dân bƣớc đầu đem lại kết quả tốt. Trƣớc khi tái lập tỉnh, trên địa bàn Vĩnh Phúc có 38 quỹ tín dụng nhân dân, với số vốn 32 tỷ đồng. Đến cuối năm 1995, tổng nguồn vốn huy động tại địa phƣơng đạt 592 tỷ đồng. Tổng dƣ nợ cho vay là 963 tỷ đồng, trong đó dƣ nợ vay ngắn hạn là 696 tỷ đồng chiếm 72,2%, dƣ nợ cho vay kinh tế quốc doanh là 427 tỷ đồng, chiếm 44,33%, dƣ nợ cho vay kinh tế ngoài quốc 22 doanh là 537 tỷ đồng, chiếm 55,67%, trong đó dƣ nợ cho vay hộ nông dân là 53,9 tỷ đồng, chiếm 66,85% so với dƣ nợ cho vay ngoài quốc doanh. Những tồn tại, hạn chế Bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc trong xây dựng và phát triển kinh tế, các ngành kinh tế nói chung cũng nhƣ các ngành kinh tế dịch vụ nói riêng của Vĩnh Phúc trƣớc khi đƣợc tái lập (năm 1997) còn có nhiều tồn tại, hạn chế. Đến trƣớc năm 1997, về cơ bản kinh tế Vĩnh Phúc vẫn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, thu nhập thấp, đời sống nhân dân nông thôn còn nghèo. Kinh tế tuy có tăng trƣởng nhƣng tốc độ chƣa đạt mức bình quân chung của cả nƣớc. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội tuy phát triển khá nhƣng chất lƣợng kém, xuống cấp nhanh, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất hạn hẹp. Tỉnh đang trong hoàn cảnh đƣợc tái lập, nhu cầu đầu tƣ xây dựng rất lớn, nhƣng nguồn lực để đáp ứng rất khó khăn. Trong các thành phần kinh tế trên địa bàn, kinh tế quốc doanh quy mô quá nhỏ, thiết bị và công nghệ lạc hậu, hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả; kinh tế hợp tác xã giảm sút, hoạt động khó khăn; kinh tế tƣ nhân chƣa dám bỏ vốn nhiều vào sản xuất, chủ yếu hoạt động về dịch vụ. Trong lĩnh vực kinh tế thƣơng mại, hoạt động xuất nhập khẩu thƣờng rất bấp bênh, không đảm bảo đƣợc tính ổn định do chƣa có đơn vị đầu mối đủ mạnh để kinh doanh, chƣa tạo đƣợc nguồn hàng hoá có chất lƣợng cao, khối lƣợng lớn, chƣa tạo đƣợc thị trƣờng xuất khẩu ổn định. Việc nắm bắt thông tin về thị trƣờng, giá cả,... phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu còn hạn chế, đặc biệt chƣa tạo đƣợc xuất khẩu trực tiếp mà chủ yếu là xuất khẩu uỷ thác, nên hiệu quả thấp và rất bấp bênh. Kinh doanh du lịch còn nặng về khai thác tự nhiên, chƣa tạo đƣợc ấn tƣợng hấp dẫn khách du lịch; sản phẩm du lịch chƣa có nét đặc trƣng và

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net