Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2008

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2008

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀ VŨ TUYẾN ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2008 Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam Mã số: 60 22 56 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG BÁ MINH HÀ NỘI - 2011 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ mới với những xu hướng thuận lợi, khó khăn và thách thức mới, thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập... đã làm cho cục diện thế giới có nhiều biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn về chất so với những thập niên cuối thế kỷ XX. Trước xu thế hội nhập sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) đã và đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước cũng như đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với nước ta, từ xuất phát điểm là nền kinh tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình độ của một nước phát triển vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” tất yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH như là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”. Đây cũng là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới của cách mạng nước ta. Trong hàng loạt phương thức và biện pháp để thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH, vấn đề xây dựng nguồn nhân lực (NNL) hết sức cần thiết và có tính chiến lược lâu dài. Ngày nay, chất lượng NNL có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển, nếu trước đây sự phát triển của một quốc gia chủ yếu dựa vào các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, nguồn lao động đông đúc, thị trường tiêu thụ... thì hiện nay chính tri thức lại có ý nghĩa hết sức lớn lao, góp phần tạo nên sự thịnh vượng, giàu có cho một quốc gia, lãnh thổ. Xu thế TCH cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra đời của Internet đã làm cho các quốc gia, lãnh thổ ngày càng trở nên gần nhau hơn, qua đó sự cạnh tranh cũng càng trở lên gay gắt hơn và tất nhiên ưu thế cạnh tranh bao giờ cũng nghiêng về quốc 7 gia, lãnh thổ có chất lượng NNL cao hơn, được đào tạo tốt hơn. Bởi vì, NNL chính là lực lượng lao động đã, đang và sẽ tham gia đắc lực vào tiến trình CNH - HĐH; là nguồn lực có ý nghĩa quyết định đối với các nguồn lực khác cũng như quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Sau hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, trên địa bàn cả nước ta nói chung, ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, NNL đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc tạo ra khối lượng lớn sản phẩm hàng hóa, phong phú và đa dạng, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp CNH - HĐH. Tuy nhiên, vấn đề đào tạo sử dụng NNL ở Vĩnh Phúc đang đặt ra hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu đánh giá, nhất là cần được tổng kết để rút ra những vấn đề mấu chốt, kịp thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị để công tác này đi đúng quỹ đạo, phù hợp với quy luật khách quan. Xu thế thời đại, vấn đề TCH, nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đang đặt ra nhiều thách thức cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, vì vậy việc chuẩn bị NNL đáp ứng với sự phát triển nhanh bền vững là yêu cầu bức thiết đặt ra. Xuất phát từ thực tế đó, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2008” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở tỉnh Vĩnh Phúc cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học, các hội thảo khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các nhà khoa học về đề tài này ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như: Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH, "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH, HĐH" của GS.TS Phạm Minh Hạc viết về sự phát triển của giáo dục và đào tạo, về vấn đề bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn lực trí tuệ - nhân tài của đất nước; "Vai trò của nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH, những thách thức lớn đối với Việt Nam", "Đào 8 tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" của Trần Văn Tùng, đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực trong nền kinh tế đổi mới và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở khía cạnh phát triển giáo dục của một số nước trên thế giới và ở Việt Nam; "Nguồn lực con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam" của Tiến sỹ Đoàn Khải; "Phát huy nguồn lực con người để CNH, HĐH" của Tiến sỹ Vũ Bá Thể; "Phát huy yếu tố con người trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay" của Tiến sỹ Hồ Anh Dũng; "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước" của Mai Quốc Chính, đã chỉ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước; "Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học ở Việt Nam" của Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan, đề cập đến một số nội dung về giáo dục đại học nhằm đi đến mục tiêu qua đó đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học nước ta, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH; "Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới" của Nguyễn Minh Đường; "Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông Á" của Lê Thị Ái Lâm; Luận án tiến sĩ "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức" của Lê Thị Ngân; "Đề án phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Vĩnh phúc giai đoạn 2008 -2015" của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Ngoài ra còn có nhiều công trình, tác phẩm khoa học của các nhà khoa học, nhà quản lí khác. Nhìn chung, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp và có hệ thống về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Đây là vấn đề mới mẻ và phức tạp, nên việc nghiên cứu về nguồn lực này ở nước ta chưa nhiều, chưa có sự thống nhất cao. Cho đến nay, việc đi sâu nghiên cứu dưới góc độ lịch sử Đảng và từ thực tiễn Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển NNL từ năm 2001 đến năm 2008, ở tỉnh Vĩnh Phúc chưa có công trình nghiên 9 cứu riêng một cách trực tiếp. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2008”, là cách tiếp cận cụ thể một lĩnh vực chưa được đề cập một cách hoàn chỉnh, toàn diện như nội dung của luận văn đề cập. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích của luận văn: Nghiên cứu lý luận về NNL tạo cơ sở khoa học cho phân tích thực trạng xây dựng, phát triển NNL này ở tỉnh Vĩnh Phúc. Rút ra những kinh nghiệm để xây dựng, phát triển NNL nhằm đáp ứng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm tới. * Nhiệm vụ của luận văn: Phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Làm rõ thực trạng về NNL ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001 đến 2008. Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng, phát triển NNL, từ đó đề ra chủ trương và sự chỉ đạo xây dựng, phát triển NNL trên địa bàn tỉnh. Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; rút ra những kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc để vận dụng vào giai đoạn mới đạt kết quả cao hơn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. * Phạm vi nghiên cứu: 10 Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng, phát triển NNL. Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2001 đến năm 2008. Về không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng, phát triển NNL trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu * Nguồn tài liệu: Một số tác phẩm kinh điển viết về con người dưới chế độ chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Một số tác phẩm, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc; các báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh phúc và một số Sở, Ban, ngành của tỉnh về vấn đề NNL, những nội dung liên quan về nguồn nhân lực. Ngoài ra tác giả còn sử dụng các nguồn tư liệu thành văn trên các báo, tạp chí có liên quan đến nội dung của luận văn. * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, nhưng phương pháp chủ yếu là: Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp hai phương pháp đó. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác như phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học… Trên cơ sở chọn lọc và xử lý thận trọng các nguồn tư liệu, các dữ liệu trong mối quan hệ với nhau để luận giải các vấn đề mà luận văn đề cập đến. 6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn 11 Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực ở Vĩnh Phúc trước năm 2001. Luận văn bước đầu hệ thống hóa quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển NNL từ năm 2001 đến năm 2008. Đúc rút một số kinh nghiệm vận dụng vào phát triển NNL trong thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết. Chƣơng 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2005. Chƣơng 2: Bước phát triển mới của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2006 đến năm 2008. Chƣơng 3: Kết quả và kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực (2001-2008). 12 Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ VĨNH PHÚC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 1.1. Sự cần thiết và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực (2001-2005) 1.1.1. Sự cần thiết phải xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước - Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội. Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng Thủ đô. Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập năm 1950, trên cơ sở sát nhập hai tỉnh Vĩnh Yên và Phúc Yên, năm 1968 sát nhập với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú, từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về mở rộng địa giới, hành chính Thủ đô Hà Nội, từ ngày 1/8/2008, huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc chuyển toàn bộ về Thành phố Hà Nội. Hiện nay Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên 1.231km2, dân số 10,2 triệu người. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính; 1 thành phố, 1 thị xã và 07 huyện, 137 xã, phường, thị trấn, trong đó có 39 xã miền núi. Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông đa dạng, gồm cả đường sắt, đường bộ và đường thuỷ; gần sân bay quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa Thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), vì vậy rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập, đặc biệt vùng đất cao, có những thuận lợi trong thu hút đầu tư phát triển các khu công nghiệp. Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nhiệt độ trung bình hàng năm 24-25oC; lượng mưa 1200-1400ml; có 3 vùng sinh thái rõ rệt là: Đồng bằng, trung du và miền núi. Những đặc điểm khí hậu, sinh thái trên 13 tạo tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng về cây lương thực, cây ăn quả, chăn nuôi và phát triển kinh tế đồi rừng. Dọc theo dãy Tam Đảo với nhiệt độ trung bình 180C, có nhiều danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử, rất thuận lợi cho phát triển du lịch. Vĩnh Phúc đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía Bắc; sự hình thành và phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những thành phố của quốc gia và quốc tế: Hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2 Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là đường vành đai IV Thành phố Hà Nội... Do vị trí thuận lợi và chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý của tỉnh, Vĩnh Phúc là một địa chỉ hấp dẫn của các nhà đầu tư. Tháng 7/2003, Vĩnh Phúc được Chính phủ phê duyệt là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vào thời điểm tái lập, xuất phát điểm nền kinh tế của tỉnh rất thấp; kinh tế thuần nông, tỷ trọng nông nghiệp chiếm trên 52%, công nghiệp chiếm 12,8%, thu nhập bình quân đầu người là 155,58 USD, thu ngân sách dưới 100 tỷ đồng. Trong những năm qua, nhờ có định hướng phát triển đúng đắn và các cơ chế, chính sách phù hợp với thực tế, kinh tế của tỉnh phát triển mạnh và luôn duy trì ở mức tăng trưởng cao; năm 2006 tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm GDP theo giá so sánh (1994) tăng 19,76% và năm 2007 ước tăng 20,4%. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng nhanh, từ 114 tỷ đồng (1997) lên 5.642 tỷ đồng (2007). Tỷ lệ huy động vốn vào ngân sách tăng từ 5,1% (năm 1997) lên 31% (năm 2007), chi ngân sách năm 2007 là 4.356 tỷ đồng. Từ năm 2004 tỉnh đã cân đối được thu - chi và đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung ương. Thu hút đầu tư tăng mạnh: Trong hơn 10 năm, tỉnh đã thu hút được trên 600 dự án đầu tư, với tổng số vốn đăng ký gần 4 tỷ USD, trong đó có 170 dự 14 án vốn đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký 2,8 tỷ USD, 465 dự án vốn đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 30.700 tỷ đồng. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 343,8 triệu USD, tăng 25 lần, kim ngạch nhập khẩu đạt 945,5 triệu USD, tăng 163 lần so với năm 1997. Riêng năm 2008, mặc dù trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, thiên tai, lũ lụt ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân... nhưng kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 17,77%, trong đó: Công nghiệp - xây dựng tăng 20,02%; dịch vụ tăng 18,99%; nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 6,89%. GDP bình quân đầu người đạt 21,8 triệu đồng, tăng 38,9% so cùng kỳ (tương đương 1.323 USD). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, công nghiệp, dịch vụ chiếm gần 82%, nông nghiệp chiếm hơn 18%. Thu ngân sách đạt kết quả cao nhất từ trước đến nay, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 9.147,3 tỷ đồng, tăng 55,86% so cùng kỳ, thu nội địa đạt 7.187,7 tỷ đồng (chiếm 78,6% tổng thu). Tổng chi ngân sách địa phương đạt 6.609,5 tỷ đồng, tăng 42,3% so cùng kỳ, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 44,4%. Thu hút đầu tư ước đạt 535,3 triệu USD và gần 6.00 tỷ đồng, nâng tổng số vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn lên gần 2 tỷ USD, tổng vốn đầu tư trong nước lên 15,5 nghìn tỷ đồng. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt 10.287 tỷ đồng, tăng 32% so cùng kỳ. Hiện nay cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Cụ thể cơ cấu (%) các nhóm ngành kinh tế như sau: Bảng 1.1. Cơ cấu các nhóm ngành kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc qua các năm Đơn vị tính: % Năm 2001 2005 2006 2007 2008 Nhóm ngành Nông - Lâm - Thuỷ sản 29,9 20,48 16,86 14,37 17,71 Công nghiệp - Xây dựng 40,0 52,44 57,12 59,93 58,34 15 Dịch vụ 30,1 27,08 26,02 25,70 23,95 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2005, 2006, 2007, 2008 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Dân số của tỉnh đến năm 2008 là 1.014.488 người, là tỉnh có mật độ dân số cao trong cả nước (khoảng 824 người/km2, gấp 3,2 lần mật độ dân số chung của cả nước), tỷ lệ nữ chiếm 51,5% dân số. Sự tăng trưởng về kinh tế, cải thiện về đời sống vật chất của nhân dân trong những năm qua đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thể thao và thực hiện các chính sách xã hội. Giáo dục Vĩnh Phúc đạt được nhiều kết quả trên cả 3 mục tiêu: Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; tỉnh sớm đạt được những chuẩn cập giáo dục TH đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS (từ năm 2002) và hiện đang tích cực thực hiện phổ cập giáo dục trung học. Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được quan tâm, các dịch vụ y tế ngày càng được nâng lên, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm dần. Các giá trị truyền thống văn hoá được phát huy, phong trào xây dựng gia đình, làng xã, cơ quan văn hoá được đẩy mạnh, có 80% số gia đình, có 57% số làng đạt tiêu chuẩn văn hoá. Hoạt động thể thao quần chúng diễn ra ngày càng thường xuyên, thể thao thành tích cao có kết quả bước đầu. Các chính sách xã hội được tỉnh quan tâm thực hiện, hàng năm giải quyết việc làm khoảng 21,2 ngàn lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 42,9%, tăng 5,3% so năm 2007. Tỷ lệ hộ nghèo giảm dần, năm 2008 chỉ còn 10,4%. Triển khai các chính sách như bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, huấn luyện nghề ngắn hạn cho nông dân; tăng cường công tác đào tạo nghề, ưu tiên các khu vực nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; đầu tư xây dựng nhà đại đoàn kết... Công tác dân tộc, tôn giáo, an ninh, quốc phòng được tăng cường, chính trị xã hội ổn định. 16 Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội là điều kiện thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ phát triển NNL trong thời gian tới. - Vị trí, vai trò nguồn nhân lực đối với sự phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc Những nhận thức chung về vị trí, vai trò NNL: Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: Tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người… Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Quá trình CNH - HĐH đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh KH&CN là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về NNL: Theo Liên hợp quốc NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước. Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: Vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Theo tổ chức lao động quốc tế NNL của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. 17 Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển, do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động. Trong lĩnh vực kinh tế phát triển cho rằng: NNL là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. NNL được biểu hiện trên hai mặt: Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế chính trị có thể hiểu: NNL là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển NNL trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho 18 con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển NNL. Theo quan niệm của Liên hiệp quốc, phát triển NNL bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Một số quan điểm khác cho rằng: Phát triển NNL là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt, thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất NNL thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy từ những quan điểm khác nhau nêu trên đều khảng định vị trí, vai trò NNL giữ vai trò quyết định trong toàn bộ quá trình phát triển, trong những năm gần đây Vĩnh Phúc nhờ có sự vận dụng đúng đắn những quan điểm về việc phát triển NNL, do vậy đã có sự chuyển dịch nhanh về cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Trong quan điểm phát triển, Vĩnh Phúc phát triển không chỉ dựa vào tài nguyên, vị trí địa lý thuận lợi, mà sự phát triển của Vĩnh Phúc cần hội tụ đủ bốn điều kiện: Một là, biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn. Hai là, biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó. 19 Ba là, có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi; công nhân kỹ thuật tay nghề cao và đông đảo. Bốn là, có các nhà doanh nghiệp tài ba. Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử dụng sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với Vĩnh Phúc đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi Vĩnh Phúc đang bước vào giai đoạn CNH - HĐH, tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp CNH - HĐH của Vĩnh Phúc và phát triển bền vững. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xác định phải lấy việc phát huy chất lượng NNL làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. - Thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 2001. Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, có sự thay đổi quan trọng trong cơ cấu và chất lượng NNL. Tuy nhiên, chất lượng NNL từ trước năm 2001 ở Vĩnh Phúc nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực, thiếu cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề; khả năng tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng bộ, số cán bộ có trình độ sau ĐH còn ít; trình độ ngoại ngữ, tin học của hầu hết đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động còn rất thấp; 20 đạo đức, tác phong, kỷ luật của một bộ phận cán bộ quản lý, công chức và người lao động còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ. Cụ thể như sau: + Nguồn nhân lực từ nông dân: Tính đến năm 2001, số dân của Vĩnh Phúc là 1.117.652 người, trong đó, nông dân chiếm khoảng 990.282 người, bằng khoảng 88,6% dân số của toàn tỉnh. Số liệu trên đây phản ánh một thực tế là nông dân chiếm tỷ lệ cao về lực lượng lao động xã hội. Theo các nguồn số liệu mà chúng tôi thống kê được, hiện toàn tỉnh tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá trị thực tế theo thành phần và ngành kinh tế là 3.739.627 triệu đồng trong đó giá trị sản phẩm ngành nông lâm và thủy sản là 1.161.968 triệu đồng. Như vậy, so với trước đây nông thôn Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến tích cực [4, tr.40]. Tuy nhiên, NNL trong nông dân ở Vĩnh Phúc vẫn chưa được khai thác, tổ chức, chưa có những chính sách cụ thể cho nên dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún, họ chỉ độc canh bằng cây lúa theo kiểu truyền thống. Có người nói rằng, nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy, mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung, hiện tại phần lớn lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng NNL trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này đã dẫn đến sản xuất nông nghiệp Vĩnh Phúc vẫn còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản xuất thấp. Việc liên kết “bốn nhà” (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) chỉ là hình thức. Tính đến năm 2000 diện tích đất nông nghiệp của tỉnh chỉ còn 66.780,85 ha trong tổng số đất tự nhiên là 137.136,18 ha, tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, do hàng năm tỉnh thu hồi đất nông nghiệp để phát triển công nghiệp, xây dựng đô thị. Vì thế một bộ phận lao động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm.. nhưng chưa có chính sách hợp lý đối với người nông dân. 21 Chính vì NNL trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp, công trường thấp. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư thừa rất nhiều. Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Vĩnh Phúc đang rất đáng lo ngại. Nông dân ở những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm, chất lượng lao động thấp, qua tìm hiểu, chúng tôi thấy vẫn chưa khắc phục có hiệu quả. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chính sách đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp chưa rõ ràng. + Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng cơ cấu lao động của Vĩnh Phúc tính đến trước năm 2001 có khoảng 360.988 người trong đó lao động trong công nghiệp là 94.105 người chiếm 22%, nông - lâm - ngư nghiệp là 204.564 người chiếm 51,17%, thương mại - dịch vụ là 62.319 người chiếm 20,53%, nhìn chung số công nhân lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp là phần lớn. Trong khi đó Vĩnh Phúc ngày càng có sự chênh lệch công nhân giữa các doanh nghiệp nhà nước và ngoài nhà nước, lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ngày càng ít đi, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ công nhân nói chung, trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn thấp. Số công nhân có trình độ CĐ, ĐH ở Vĩnh Phúc chiếm số lượng rất nhỏ so với đội ngũ công nhân nói chung. Bảng 1.2. Trình độ của đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh Phúc Đơn vị tính: Người Năm 1997 2000 Trình độ Số công nhân có bằng cấp 58.88 73.35 22 Trên ĐH 14 738 Đại học, cao đẳng 1.65 9.75 Trung học 12.328 23.337 Sơ cấp 21.125 24.473 Nguồn: Số liệu do tác giả khảo sát, thống kê. Trong thực tế vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác làm trong ngày nghỉ, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nghiệp nặng còn rất thấp so với tổng số công nhân của toàn tỉnh, mặt khác công nhân trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp lại chiếm tỷ lệ cao. Với tình hình này, công nhân khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp CNH - HĐH của tỉnh. Về mặt chính trị, thực chất công nhân Vĩnh Phúc chưa có địa vị bằng trí thức, công chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội và trong sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng giai cấp công nhân. + Nguồn nhân lực từ công chức, viên chức: Ngay sau khi tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập và đi vào hoạt động còn gặp rất nhiều khó khăn và thử thách, xuất phát điểm kinh tế thấp, đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập thiếu về số lượng (chỉ có 30% số cán bộ của tỉnh Vĩnh Phú chuyển về tỉnh Vĩnh Phúc), cơ cấu chưa đồng bộ. Tuy nhiên nhìn chung cán bộ các cấp, các ngành trong tỉnh đã được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn; hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; phấn khởi, nêu cao tinh thần trách nhiệm, vượt mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đa số cán bộ giữ gìn 23 được phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Bên cạnh những mặt mạnh vào thời điểm đó đội ngũ cán bộ của tỉnh còn có một số những hạn chế, yếu kém: Nhiều cán bộ chưa được đào tạo chính quy có hệ thống, hạn chế về kiến thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, quản lý pháp luật. Cán bộ xã, phường, thị trấn phần đông văn hoá chưa hết phổ thông, đào tạo về nghiệp vụ chuyên môn còn ít, trình độ lý luận Trung cấp trở lên chỉ đạt 50%. So với yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới, không ít nơi cán bộ chưa đủ tầm, nhưng nguồn bổ sung khó khăn. Khi chuyển sang cơ chế mới, một số cán bộ không giữ gìn được phẩm chất, thoái hoá biến chất, vun vén cá nhân, cục bộ bản vị, phát ngôn tuỳ tiện, quan liêu, lãng phí của công, mất đoàn kết, lười học tập nghiên cứu, thực hiện nhiệm vụ hiệu quả thấp. Nhiều cán bộ không nghiêm túc trong đấu tranh tự phê bình và phê bình, nể nang, né tránh, đoàn kết xuôi chiều. Đội ngũ cán bộ chưa đồng bộ, thiếu cán bộ kinh tế tổng hợp, cán bộ chuyên môn về công nghiệp, về quản trị sản xuất kinh doanh, ít cán bộ có trình độ cao và các chuyên gia đầu ngành, trình độ ngoại ngữ và tin học còn hạn chế. Nhìn chung, xét về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ của tỉnh trước năm 2001 còn chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảng 1.3. Bảng tổng hợp chất lƣợng Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Trình độ Trình độ lý Độ tuổi chuyên môn luận chính trị Cử TT Nhiệm kỳ Từ ĐH, TS Nữ Bình Dƣới Trên nhân 40 - Trên TC TC quân 40 55 Cao 55 ĐH cấp Khóa XII 43 3 47, 77 2 41 36 7 32 11 1 (1998-2000) 24 Tỷ lệ (%) 6,97 4,65 95,35 83,72 16,28 74,42 25,58 Khóa XIII 47 4 53,43 2 38 7 42 5 41 6 2 (2000-2005) Tỷ lệ (%) 8,51 4,26 80,85 14,89 89,36 10,64 87,23 12,77 Khoá XIV 49 4 50,29 1 44 4 49 49 3 (2005-2010) Tỷ lệ (%) 8,16 2,04 89,80 8,16 100 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ban Tổ chức tỉnh ủy năm 2009. Bảng 1.4. Tổng hợp chất lƣợng đội ngũ cán bộ tỉnh Trình độ Trình độ chuyên môn LLCT T Tổng Danh mục Tiến Thạc ĐH Còn ĐH T số CĐ TC TC sỹ sỹ CĐ lại CC 1 Giai đoạn: 1998 – 2000 Khối Đảng, ĐT: Khối QLNN 1.066 2 15 672 210 173 75 Khối sự nghiệp 12.999 3 75 4.604 53 1.443 Khối CQ cơ sở 600 0 53 168 14 281 2 Giai đoạn: 2001 – 2005 Khối Đảng, ĐT: 936 5 394 209 119 209 Khối QLNN Khối sự nghiệp Khối CQ cơ sở 3 Giai đoạn: 2006 – 2008 Khối Đảng, ĐT: 831 2 16 586 54 173 416 Khối QLNN 1.660 48 1.254 57 176 125 Khối sự nghiệp 15.756 313 5.701 4.693 4.680 369 Khối CQ cơ sở 2.874 282 1.231 1.361 Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ban Tổ chức tỉnh ủy năm 2009. Nói tóm lại, NNL từ nông dân, công nhân và cán bộ công chức, viên chức ở Vĩnh Phúc nhìn chung còn nhiều bất cập, điều đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế. Trong những năm sau khi tách tỉnh, kinh tế Vĩnh Phúc tuy có tăng trưởng cao nhưng so với kinh tế một số tỉnh trong nước và thế giới thì cần cố gắng nhiều. Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng NNL ở Vĩnh Phúc: 25

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net