Kế hoạch hành động logistics của vn

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Kế hoạch hành động logistics của vn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: ĐỀ XUẤT KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Phương Thúy Lớp : Anh 3 – Thương mại quốc tế Khóa : 46 Giáo viên hướng dẫn : TS. Trịnh Thị Thu Hương Hà Nội, tháng 05 năm 2011 MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTICS ................................... 3 I. Tổng quan về logistics ........................................................................ 3 1) Logistics là gì? .................................................................................. 3 2) Đặc điểm của logistics ...................................................................... 5 3) Vai trò của logistics .......................................................................... 6 a) Đối với hoạt động kinh tế quốc tế .................................................. 6 b) Đối với nền kinh tế quốc dân ......................................................... 7 c) Đối với doanh nghiệp .................................................................... 8 4) Phân loại logistics ............................................................................. 9 a) Theo hình thức hoạt động .............................................................. 9 b) Theo quá trình ............................................................................. 10 5) Xu hướng phát triển logistics trên thế giới ...................................... 11 II. Các yếu tố cơ bản của hệ thống Logistics........................................ 12 1) Cơ sở hạ tầng .................................................................................. 12 a) Đường biển .................................................................................. 13 b) Đường sông ................................................................................. 15 c) Đường bộ..................................................................................... 15 d) Đường sắt .................................................................................... 17 e) Đường hàng không ...................................................................... 18 f) Mạng lưới công nghệ thông tin .................................................... 19 2) Khung pháp lý và thể chế ................................................................ 20 3) Người cung ứng dịch vụ Logistics (Logistics Service Provider - LSP) ........................................................................................................ 21 4) Người sử dụng dịch vụ Logistics.................................................... 22 CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG HỆ THỐNG LOGISTICS VIỆT NAM ................................................................................................. 24 I. Thực trạng hệ thống logistics Việt Nam .......................................... 24 1) Cơ sở hạ tầng .................................................................................. 24 a) Đường biển .................................................................................. 25 b) Đường sông ................................................................................. 32 c) Đường bộ..................................................................................... 34 d) Đường sắt .................................................................................... 37 e) Đường hàng không ...................................................................... 39 f) Mạng lưới công nghệ thông tin .................................................... 42 2) Hệ thống pháp luật .......................................................................... 46 3) Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics ........................................ 48 4) Người sử dụng dịch vụ logistics ...................................................... 51 II. Phân thích SWOT ............................................................................ 52 1) Điểm mạnh ..................................................................................... 52 2) Điểm yếu ........................................................................................ 53 3) Cơ hội ............................................................................................. 54 4) Thách thức ...................................................................................... 54 CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG LOGISTICS CỦA VIỆT NAM ........................................................................................ 56 I. Mục tiêu của bản kế hoạch .............................................................. 56 II. Kế hoạch hành động – Cơ sở hạ tầng .............................................. 57 1. Năng lực cảng ................................................................................. 58 2. Năng lực đường thủy nội địa ........................................................... 60 3. Năng lực đường bộ ......................................................................... 61 4. Năng lực đường sắt ......................................................................... 62 5. Năng lực của các kho chứa hàng chờ làm thủ tục hải quan (ICD) trong đất liền/ cảng cạn và các bãi chờ làm dịch vụ logistics ................. 63 III. Kế hoạch hành động – Khung pháp luật ........................................ 64 IV. Kế hoạch hành động – Các nhà cung cấp dịch vụ logistics ............ 67 1) Cải thiện chất lượng dịch vụ logistics ............................................. 68 2) Mở rộng sự bao phủ vùng và toàn cầu............................................. 68 a) Chú trọng hoạt động Marketing để thu hút khách hàng ................ 69 b) Tăng cường hoạt động sát nhập và mua lại (M&A) trong ngành cung ứng dịch vụ logistics Việt Nam .................................................. 69 V. Kế hoạch hành động – Người sử dụng dịch vụ logistics ................. 70 1. Thực hành JIT ................................................................................. 71 2. Thuê ngoài dịch vụ logistics............................................................ 72 3. Dịch vụ và hạ tầng logistics cho sản xuất và thương mại ................ 72 VI. Kế hoạch hành động – Phát triển nguồn nhân lực ......................... 73 1) Nâng cao kỹ năng của cán bộ Việt Nam trong việc phát triển chính sách logistics ......................................................................................... 74 2) Nâng cao kỹ năng của đội ngũ quản lý và nhân viên về logistics .... 75 3) Quản lý rủi ro trong logistics........................................................... 76 KẾT LUẬN ................................................................................................. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 79 LỜI MỞ ĐẦU Khi mới xuất hiện, logistics chỉ được xem như một phương thức kinh doanh mới, mang lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Cùng với quá trình phát triển, logistics đã được chuyên môn hóa và trở thành một hoạt động quan trọng trong giao thương quốc tế. Ngày nay, toàn cầu hóa càng mạnh mẽ, càng đòi hỏi sự phối hợp cao giữa các hoạt động vận tải đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông, đường hàng không và cả Internet. Điều này càng làm cho hệ thống logistics trở nên phức tạp. Ở Việt Nam, logistics vẫn còn là thuật ngữ khá mới mẻ. Hầu hết mọi người đều cho rằng hoạt động logistics chỉ đơn thuần là hoạt động giao nhận hàng hóa hay thậm chí chỉ là dịch vụ vận tải. Bởi thế mà các công ty từ những công ty vận tải đường bộ đến các nhà giao nhận, các hàng vận tải hàng không và bưu điện đều dùng từ “logistics” để mô tả những gì họ đang cung cấp. Trong những năm trở lại đây, nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động logistics đối với sự phát triển đất nước, Nhà nước ta cũng đã có nhiều quy hoạch, đầu tư vào cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện phát triển sâu rộng hoạt động logistics. Mặc dù, với những thuận lợi hiện có, nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển logistics trong tương lai nhưng vì “sinh sau đẻ muộn” nên năng lực hệ thống logistics nước ta còn nhiều yếu kém và hạn chế. Để phát triển ngành logistics một cách toàn diện trong thời gian tới, việc xây dựng một kế hoạch hành động logistics đang là vấn đề hết sức cấp thiết. Chính vì thế, em đã quyết định chọn đề tài “Đề xuất kế hoạch hành động logistics của Việt Nam” với mong muốn được đóng góp những cảm nhận, đánh giá, và hiểu biết của bản thân em về năng lực hệ thống logistics Việt Nam, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện bản kế hoạch hành động logistics quốc gia. Kết cấu của khóa luận bao gồm 3 chương : 1 Chương I : Lý luận chung về logistics Chương II : Phân tích thực trạng hệ thống logistics Việt Nam Chương III: Đề xuất kế hoạch hành động logistics của Việt Nam Do trình độ và điều kiện nghiên cứu có hạn, nên khóa luận của em sẽ không thể tránh khỏi nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá và góp ý của các thầy cô để khóa luận này được hoàn chỉnh hơn. Nhân đây, em xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trịnh Thị Thu Hương, người đã luôn theo sát, hỗ trợ, và tận tình hướng dẫn em hoàn thành khóa luận này. Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2001 Người thực hiện Vũ Thị Phương Thúy 2 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LOGISTICS I. Tổng quan về logistics 1) Logistics là gì? Logistics là một thuật ngữ xuất hiện từ khá sớm, bắt nguồn từ tiếng Pháp “loger” có nghĩa là đóng quân. Thuật ngữ logistics ban đầu được sử dụng như một từ chuyên môn trong quân đội, trải qua dòng chảy lịch sử cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, logistics dần được nghiên cứu sâu và áp dụng trong các lĩnh vực khác như sản xuất, kinh doanh. Phải thừa nhận rằng, tốc độ phát triển của logistics hết sức nhanh chóng, khoảng nửa đầu thế kỷ 20 thuật ngữ logistics vẫn còn xa lạ với nhiều người thì đến cuối thế kỷ logistics đã được xem như là một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh. Hiện nay mỗi ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh đều có một khái niệm về logistics cho riêng mình, khó có thể khẳng định khái niệm nào là đúng nhất vì mỗi khái niệm có một cách tiếp cận và góc nhìn khác nhau. Tuy nhiên, có thể nêu ra một số khái niệm chủ yếu sau : Theo cách tiếp cận của hội đồng quản trị Logistics của Hoa Kỳ (CLM), khái niệm này được hiểu như sau: “ Logistics là quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện và kiểm soát một cách có hiệu quả quá trình lưu chuyển, dự trữ hàng hóa, dịch vụ và những thông tin liên quan từ điểm xuất phát đầu tiên đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng”. Đây cũng là định nghĩa được chú ý nhiều nhất và được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Dưới góc độ quản trị chuỗi cung ứng: logistics là quá trình tối ưu hóa về vị trí, lưu trữ và chu chuyển các tài nguyên/ yếu tố đầu vào từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua nhà sản xuất, người bán buôn, bán lẻ, đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế (Logistics and Supply Chain Management – Ma Shuo - 1999). 3 Theo khái niệm của Liên Hợp Quốc (Khóa đào tạo quốc tế về vận tải đa phương thức và quản lý logistics, Đại học Ngoại Thương, Hà Nội tháng 10/2002): Logistics là hoạt động quản lý quá trình lưu chuyển nguyên vật liệu qua các khâu lưu kho, sản xuất ra sản phẩm cho tới tay người tiêu dùng theo yêu cầu của khách hàng. Ủy ban Quản lý logistics của Hoa Kỳ thì định nghĩa: Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm, cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Trong luật Thương mại năm 2005 của nước ta, Điều 233 không định nghĩa Logistics mà định nghĩa dịch vụ Logistics như sau: “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận của khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ logistics được phiên âm theo tiếng Việt là dịch vụ lô-gi-stic.” Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng các khái niệm về dịch vụ logistics có thể chia làm hai nhóm: Nhóm định nghĩa hẹp mà tiêu biểu là định nghĩa của Luật Thương mại 2005 coi logistics gần như tương tự với hoạt động giao nhận hàng hóa. Tuy nhiên cũng cần chú ý là định nghĩa trong Luật Thương mại có tính mở, thể hiện trong cụm từ “hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa”. Trong một số lĩnh vực chuyên ngành, khái niệm logistics cũng được coi là có nghĩa hẹp, tức là chỉ bó hẹp trong phạm vi, đối tượng của ngành đó. Theo nhóm định nghĩa này, bản chất của logistics mang nhiều yếu tố vận tải, người cung 4 cấp dịch vụ logistics không có nhiều khác biệt so với người cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức (MTO). Nhóm định nghĩa thứ 2 về logistics có phạm vi rộng, có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay của người tiêu dùng cuối cùng. Theo nhóm định nghĩa này, logistics gắn liền với hoạt động quản lý dòng lưu chuyển của nguyên, nhiên vật liệu từ khâu mua sắm làm đầu vào cho quá trình sản xuất, sản xuất ra hàng hóa, đưa vào các kênh lưu thông, phân phối, đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Nhóm định nghĩa này của logistics góp phần phân định rõ ràng giữa các nhà cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ như dịch vụ vận tải, giao nhận, khai thuê hải quan… với một nhà cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp, người sẽ đảm nhận toàn bộ các khâu trong quá trình hình thành và đưa hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. 2) Đặc điểm của logistics Theo giáo trình Logistics và Vận tải quốc tế (Trường Đại học Ngoại thương, 2009)1, logistics có một số đặc điểm như sau:  Logistics là một quá trình. Điều đó có nghĩa logistics không phải là một hoạt động đơn lẻ mà là một chuỗi các hoạt động liên tục, liên quan mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống qua các bước : nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và hoàn thiện. Do đó, logistics xuyên suốt mọi giai đoạn, từ giai đoạn đầu vào cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng.  Logistics liên quan đến tất cả nguồn tài nguyên/các yếu tố đầu vào cần thiết để tạo ra sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng. Nguồn tài nguyên không chỉ có vật tư, nhân lực, mà còn bao gồm cả dịch vụ, thông tin, bí quyết công nghệ… 1 GS. TS Hoàng Văn Châu (2009), Giáo trình Logistics và vận tải quốc tế, NXB Thông tin và truyền thông 5  Logistics tồn tại ở cả hai cấp độ: hoạch định và tổ chức. Ở cấp độ thứ nhất, vấn đề đặt ra là phải lấy nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm hay dịch vụ… ở đâu ? vào khi nào ? và vận chuyển chúng đi đâu ?. Do vậy tại đây xuất hiện vấn đề vị trí. Cấp độ thứ hai quan tâm đến việc làm thế nào để đưa được nguồn tài nguyên/các yếu tố đầu vào từ điểm đầu đến điểm cuối dây chuyền cung ứng. 3) Vai trò của logistics a) Đối với hoạt động kinh tế quốc tế Xu thế tất yếu của thời đại ngày nay là toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Sự phát triển sôi động của thị trường toàn cầu đã làm cho giao thương giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới tăng một cách mạnh mẽ và đương nhiên sẽ kéo theo những nhu cầu mới về vận tải, kho bãi, các dịch vụ phụ trợ… Vai trò của logistics vì thế cũng ngày càng trở nên quan trọng. Logistics là công cụ hữu hiệu dùng để liên kết các hoạt động kinh tế quốc tế, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Việc áp dụng hệ thống logistics toàn cầu đã tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất hàng hóa từ khâu đầu vào của nguyên vật liệu cho tới khâu phân phối sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng, khắc phục được những ảnh hưởng của các yếu tố không gian, thời gian và chi phí sản xuất cho các hoạt động kinh tế quốc tế, nhờ đó các hoạt động này luôn được “kết dính” với nhau và được thực hiện một cách có hệ thống, đạt hiệu quả cao. Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường kinh doanh quốc tế. Hệ thống logistics có tác dụng như một chiếc cầu nối đưa hàng hóa đến các thị trường mới theo đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Do đó, với sự hỗ trợ của hệ thống logistics, quyền lực của nhiều công ty đã vượt ra khỏi biên giới địa lý của nhiều quốc gia. Một mặt, các nhà sản xuất kinh doanh có thể chiếm lĩnh thị trường cho sản phẩm của mình, mặt khác, thị trường kinh doanh quốc tế cũng được mở rộng và phát triển. 6 Logistics góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế. Thực tiễn, mỗi giao dịch trong buôn bán quốc tế thường phải sử dụng đến nhiều loại giấy tờ, chứng từ rườm rà, làm tiêu tốn rất nhiều chi phí, ảnh hưởng lớn tới tốc độ và hiệu quả của các hoạt động buôn bán quốc tế. Logistics đã cung cấp các dịch vụ đa dạng trọn gói, không những khắc phục được những yếu điểm đó mà còn nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, từ đó nâng cao hiệu quả buôn bán quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển của logistics điện tử (electronic logistics) sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và logistics, chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong lưu thông hàng hóa càng được giảm tới mức tối đa, chất lượng dịch vụ logistics ngày càng được nâng cao sẽ thu hẹp hơn nữa cản trở về mặt không gian và thời gian trong dòng lưu chuyển nguyên vật liệu và hàng hóa. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông. b) Đối với nền kinh tế quốc dân Có thể nói rằng, logistics có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tạo nên lợi thế cạnh tranh cho mỗi quốc gia. Ở mỗi quốc gia, mỗi một vùng địa lý có những đặc điểm về địa hình khác nhau, nguồn tài nguyên khoáng sản khác nhau và có phương thức lao động, tập quán khác nhau, do đó cần phải có sự phân bố, sắp xếp các ngành sản xuất, các khu công nghiệp, các trung tâm kinh tế sao cho phù hợp với những điều kiện riêng và tổng thể nhằm phát huy được các nguồn lực một cách hiệu quả nhất. Hệ thống logistics đã góp phần vào việc phân bố các ngành sản xuất một cách hợp lý để đảm bảo sự cân đối và tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đối với bất cứ nền kinh tế nào, việc lưu thông phân phối hàng hoá, trao đổi giao lưu thương mại giữa các vùng trong nước với nhau và với nước ngoài luôn là hoạt động thiết yếu. Nếu nó được thông suốt, có hiệu quả, thì sẽ 7 góp phần to lớn làm cho các ngành sản xuất phát triển; còn nếu bị ngưng trệ thì sẽ tác động xấu đến toàn bộ sản xuất và đời sống. Khi xem xét ở góc độ tổng thể, ta thấy logistics là mối liên kết kinh tế gần như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Hoạt động logistics không những làm cho quá trình lưu thông, phân phối được thông suốt, chuẩn xác và an toàn, mà còn giảm được chi phí vận tải. Nhờ đó hàng hoá được đưa đến thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời. Người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá một cách thuận tiện, linh hoạt, thỏa mãn nhu cầu của mình. Hiện nay, ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ, chi phí logistics chiếm 10-13% GDP; đối với những nước đang phát triển thì khoảng 15% - 20% GDP, Việt Nam là 25% GDP, với nước kém phát triển tỷ lệ này có thể lên đến hơn 30% GDP2. Có thể thấy chi phí logistics chiếm một khoản không nhỏ đối với nền kinh tế, nó tác động tới và chịu tác động bởi các hoạt động kinh tế khác. Một khi logistics được phát triển sẽ làm giảm chi phí, đảm bảo về thời gian và chất lượng cho các hoạt động kinh tế khác. Như vậy, logistics là một chuỗi các hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hỗ trợ cho luồng chu chuyển của nhiều giao dịch kinh tế, phân phối hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ. Do đó, nền kinh tế quốc dân chỉ có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền logistics hoạt động liên tục, nhịp nhàng. c) Đối với doanh nghiệp Ngày nay các doanh nghiệp phải tồn tại trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt, trong môi trường này doanh nghiệp vừa phải tìm kiếm các nguồn lực để sản xuất và đồng thời tìm kiếm khách hàng tiêu thụ các sản phẩm 2 Tham luận của Bộ Giao thông Vận Tải tại Hội thảo “Diễn đàn Logistics và dịch vụ cảng biển trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” (Tp Vũng Tàu, ngày 30 tháng 03 năm 2011) 8 đã sản xuất ra. Phương tiện liên kết doanh nghiệp với môi trường hoạt động đó chính là hệ thống logistics. Đối với các doanh nghiệp, logistics là một nhân tố quan trọng bởi nó giúp giải quyết cả đầu ra lẫn đầu vào cho doanh nghiệp một cách hiệu quả. Các kênh logistics vừa cung cấp nguyên liệu thô cho sản xuất, tạo điều kiện phát triển vận tải, vừa cung cấp thành phẩm cho hệ thống phân phối vật chất. Không những thế, logistics còn cung cấp sự hỗ trợ trên các điểm chuyển giao quyền sở hữu, nhờ đó quá trình từ sản xuất đến phân phối hàng hóa, dịch vụ luôn được tối ưu hóa. Việc giảm chi phí logistics luôn được các nhà quản trị đặt lên hàng đầu trong chương trình giảm tổng chi phí cho doanh nghiệp. Đặc biệt là trong thời gian gần đây khi mà tình hình kinh doanh đã thay đổi với chi phí logistics ngày càng tăng cao do sự bất ổn trong giá xăng dầu và sự tăng lên trong chi phí an ninh. Vì vậy với việc phát triển hệ thống logistics sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản hơn và đạt hiệu quả hơn, góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Ngoài ra, logistics còn hỗ trợ đắc lực cho hoạt động marketing, đặc biệt là marketing hỗn hợp (4P – Right Product, Right Price, Proper Promotion, and Right Place). Chính logistics đóng vai trò then chốt trong việc đưa sản phẩm đến đúng nơi cần đến, vào đúng thời điểm thích hợp. Sản phẩm/dịch vụ chỉ có thể làm thỏa mãn khách hàng và có giá trị khi và chỉ khi nó đến được với khách hàng đúng thời hạn và địa điểm quy định. 4) Phân loại logistics Hiện nay, trên thế giới, có hai cách phổ biến dùng để phân loại logistics, đó là theo hình thức hoạt động và theo quá trình. a) Theo hình thức hoạt động Theo tiêu chí này, logistics được chia thành 5 loại: 9  Logistics bên thứ nhất (1PL – First party logistics): chủ sở hữu hàng hóa tự mình tổ chức và thực hiện các hoạt động logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân, theo đó chủ hàng phải đầu tư vào phương tiện vận tải, kho bãi, nhân công,… để quản lý và vận hành hoạt động logistics. Hình thức này thường làm giảm hiệu quả kinh doanh của phần lớn doanh nghiệp vì họ sẽ không có đủ kỹ năng, kinh nghiệm chuyên môn để quản lý và vận hành hệ thống.  Logistics bên thứ hai (2PL – Second party logistics): người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ hai sẽ cung cấp dịch vụ cho các hoạt động đơn lẻ trong dây chuyền logistics như vận tải, lưu kho bãi, thanh toán, mua bảo hiểm,… Trong hình thức này, 2PL chưa tích hợp các hoạt động đơn lẻ thành chuỗi cung ứng đồng nhất  Logistics bên thứ ba (3PL – Third party logistics): người cung cấp dịch vụ sẽ thay mặt chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics cho từng bộ phận. 3PL bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc luân chuyển, tồn trữ hàng hóa, xử lý thông tin,... và có tính tích hợp vào dây chuyền cung ứng của khách hàng.  Logistics bên thứ tư (4PL – Fourth party logistics): người cung cấp dịch vụ là người tích hợp (integrator), gắn kết các nguồn lực, tiềm năng và cơ sở vật chất kho học kỹ thuật của mình với các tổ chức khác để thiết kế, xây dựng và vận hành các giải pháp chuỗi logistics. 4PL hướng đến quản lý cả quá trình logistics.  Logistics bên thứ năm (5PL – Fith party logistics): được nói tới trong lĩnh vực thương mại điện tử, các nhà cung cấp dịch vụ logistics cung cấp dịch vụ trên cơ sở nền tảng là thương mại điện tử. b) Theo quá trình Theo tiêu chí này, logistics bao gồm 3 loại : 10  Logistics đầu vào (inbound logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung ứng các yếu tố đầu vào một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian và chi phí cho quá trình sản xuất.  Logistics đầu ra (outbound logistics): là các dịch vụ đảm bảo cung cấp thành phẩm đến tay người tiêu dùng một cách tối ưu cả về vị trí, thời gian, và chi phí nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.  Logistics ngược (reverse logistics): là các dịch vụ được cung ứng đảm bảo quá trình thu hồi phế phẩm, phế liệu,… các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường phát sinh từ trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng trở về để tái chế hoặc xử lý.” 5) Xu hướng phát triển logistics trên thế giới Bất kỳ một quốc gia hay ngành nghề nào, không phân biệt lớn hay nhỏ, mới hay cũ, muốn tồn tại và phát triển thì phải chấp nhận và tích cực tham gia vào xu thế tất yếu của thời đại, xu thế toàn cầu hóa. Toàn cầu hoá làm cho thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ và sẽ dẫn đến bước phát triển tất yếu của Logistics - Logistics toàn cầu (Global Logistics). Theo các chuyên gia, Logistics sẽ phát triển theo 3 xu hướng chính sau:  Ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử ngày càng phổ biến và sâu rộng hơn trong các lĩnh vực của Logistics như: hệ thống thông tin quản trị dây truyền cung ứng toàn cầu, công nghệ nhận dạng bằng tần số vô tuyến,... vì thông tin được truyền càng nhanh và chính xác thì các quyết định trong hệ thống Logistics càng hiệu quả.  Phương pháp quản lý Logistics kéo (Pull) ngày càng phát triển mạnh mẽ và dần thay thế cho phương pháp Logistics đẩy (Push) theo truyền thống.  Thuê dịch vụ Logistics từ các công ty Logistics chuyên nghiệp ngày càng phổ biến. Toàn cầu hoá nền kinh tế càng sâu rộng thì tính cạnh tranh lại càng gay gắt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Nếu như trước đây, nhiều 11 doanh nghiệp lớn thường tự mình đứng ra tổ chức và thực hiện các hoạt động Logistics để đáp ứng nhu cầu của bản thân, thì giờ đây, để tối ưu hóa và tăng sức cạnh tranh cho bản thân, việc đi thuê ngoài các dịch vụ Logistics ngày càng trở nên phổ biến. II. Các yếu tố cơ bản của hệ thống Logistics Hệ thống logistics của một quốc gia được cấu thành bởi 4 yếu tố: cơ sở hạ tầng, khung pháp lý và thể chế, người cung cấp dịch vụ, và người sử dụng dịch vụ logistics. Khung logistics đã được chuẩn hóa này là một công cụ rất quan trọng để xác định năng lực tổng thể của hệ thống logistics một quốc gia, nó cho thấy 4 cấu phần liên quan tới logistics được liên kết và tác động với nhau như thế nào để (được thể hiện trong sơ đồ sau) Nguồn: Ruth Banomyong, Đại học Thammasat 1) Cơ sở hạ tầng Thực tiễn phát triển hoạt động logistics ở các nước trên thế giới cho thấy, hệ thống này chỉ có thể phát triển trên nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc. Sự sẵn có và chất lượng của cơ sở hạ tầng chính là một trong các cấu phần chính quyết định môi trường logistics và giao thông của mỗi quốc gia. Vì vậy, có thể nói cơ sở hạ tầng chính là nền tảng, là trái tim, mạch máu của hoạt động logistics. Cơ sở hạ tầng tốt giúp cho hàng hóa và dịch vụ được vận 12 chuyển tới mọi nơi nhanh và hiệu quả nhất. Cơ sở hạ tầng bao gồm: đường biển, đường sông, đường bộ, đường sắt, đường hàng không, mạng lưới công nghệ thông tin. a) Đường biển Vận tải biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Mặc dù tốc độ vận chuyển tương đối chậm và bị lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nhưng vận tải biển vẫn luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống vận tải quốc tế và có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường biển không ngừng tăng qua các năm và theo số liệu thống kê của UNTACD, tổng số lượng hàng hoá chuyên chở trong buôn bán quốc tế đạt hơn 7 tỷ tấn mỗi năm thì khối lượng hàng hoá chuyên chở thông qua vận tải biển luôn chiếm khoảng 80%. Sở dĩ như vậy là bởi vì: vận tải đường biển có năng lực chuyên chở lớn, thích hợp cho việc vận chuyển hầu hết các loại hàng hoá; các tuyến đường hàng hải hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên nên chi phí đầu tư xây dựng các tuyến đường thấp; giá thành đường biển là thấp nhất; hiệu quả sử dụng nhiên liệu là cao nhất, và rất thân thiện với môi trường. Một bộ phận quan trọng cấu thành nên cơ sở vật chất kĩ thuật của vận tải biển chính là hệ thống cảng biển. Nếu định nghĩa cảng biển theo quan điểm truyền thống thì cảng biển chỉ đơn thuần là đầu mối giao thông, là nơi thực hiện các thao tác xếp dỡ hàng hoá từ phương thức vận tải biển sang các phương thức vận tải khác và ngược lại. Theo quan điểm này, vai trò cơ bản của cảng biển là xếp dỡ hàng hoá, hỗ trợ cho công tác xuất nhập khẩu với tư cách là một bộ phận cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia. Tuy nhiên, theo quan điểm hiện đại, cảng biển được xem là nơi thu hút các hoạt động kinh tế, là điểm đầu mối của hoạt động vận tải. Theo đó, cảng biển là khu vực tiếp nối giữa đất liền và biển, được phát triển thành một trung 13 tâm công nghiệp và logistics, đóng vai trò quan trọng trong mạng lưới công nghiệp và là mắt xích trong chuỗi logistics toàn cầu. Như vậy, cảng biển muốn hoạt động tốt, nâng cao tính cạnh tranh của mình cần phải có mặt bằng, cơ sở vật chất lớn để phục vụ cho tất cả các hoạt động của các doanh nghiệp, ví dụ như hạ tầng giao thông kết nối hiệu quả, các dịch vụ đi kèm chất lượng, thủ tục nhanh gọn…. Tùy theo chức năng sử dụng, ta có thể phân loại cảng biển thành cảng thương mại, cảng quân sự, hay cảng chuyên dùng…Với cảng thương mại, tùy theo công suất của cảng mà ta có: Cảng cấp I: hàng hóa thông qua cảng trên 20 triệu tấn/năm, Cảng cấp II: hàng hóa thông qua cảng từ hơn 10 triệu đến 20 triệu tấn/năm, Cảng cấp III: hàng hóa thông qua cảng từ 5 triệu đến 10 tấn/năm. Nếu xét về vị trí địa lý thì ta có cảng biển, cảng sông, cảng cửa ngõ… Tuy nhiên thuật ngữ “cảng biển” không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc vị trí của cảng phải đặt ở vị trí cửa biển hay ven biển mà có thể nằm sâu trong các cửa sông. Năm 1956, trên thế giới bắt đầu áp dụng container trong chuyên chở đường biển quốc tế. Cũng từ đó trong khái niệm “cảng biển” có thêm “cảng container”. Việc phát triển cảng container không những thúc đẩy xuất khẩu, phát triển ngoại thương mà còn hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động logistics. Vì thế, khi xem xét vấn đề vận tải và các họat động logistics, người ta không thể không đề cập đến năng lực của hệ thống cảng container. Năng lực hệ thống cảng container của một quốc gia được hiểu là khả năng xếp dỡ, thông qua container của quốc gia đó. Các nhân tố chính ảnh hướng đến năng lực hệ thống cảng container bao gồm: cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống cảng container; cơ sở hạ tầng kết nối với hệ thống cảng; nguồn nhân lực cho phục vụ vận hành cảng; cơ chế quản lý và khai thác cảng. Năng lực hệ thống cảng container đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của hoạt động logistics. 14 Rõ ràng, cảng biển chính là đầu mối vận tải quan trọng, nơi tập trung, kết nối tất cả các phương tiện vận tải: đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, và đường hàng không, đồng thời cũng là cơ sở hạ tầng quan trọng để phát triển hoạt động logistics. Sự phát triển của cảng biển, đặc biệt là cảng container giúp ngành logistics giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh và nâng cao chất lượng hoạt động logistics. Ví dụ, nếu cảng biển được xây dựng ở vị trí thuận lợi (có thể kết nối trực tiếp với vận tải đường biển, đường sông, đường hàng không, đường bộ, đường sắt) sẽ giúp giảm bớt chi phí về vận tải. Các thiết bị chuyên dùng hiện đại của cảng sẽ giúp rút ngắn thời gian xếp dỡ hàng… Ngược lại các hoạt động logistics cũng chính là động lực để nâng cao năng lực hệ thống cảng biển nói chung và cảng container nói riêng. b) Đường sông Đường sông là phương thức vận tải rất hữu hiệu đối với các loại tàu thuyền cỡ nhỏ. Đặc biệt, đối với các loại hàng hóa giá trị thấp như: than, gạo, cát, đá, và các loại vật liệu khác, việc chuyên chở bằng đường sông với khối lượng lớn rất thuận tiện và hiệu quả. Cũng như với vận tải biển, khả năng vận chuyển của vận tải đường thủy nội địa là khá cao, giá thành hạ, ít gây ô nhiễm môi trường so với các phương thức vận tải khác, đáp ứng được việc chuyên chở khối lượng lớn cho các khu công nghiệp, chuyên chở hàng siêu trường siêu trọng. Tuy nhiên, các tuyến đường vận tải hầu hết vẫn là những tuyến đường giao thông tự nhiên và còn phụ thuộc rất nhiều vào điệu kiện tự nhiên. Vì vậy, cần phải mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào quản lý cơ sở hạ tầng đường thủy, phải đầu tư thường xuyên cả về trí lực và vật lực cho công tác mở luồng mới, duy tu bảo dưỡng, nạo vét và chỉnh trị dòng chảy, tạo điều kiện cho tàu thuyền hoạt động, vận chuyển hàng hóa suốt cả năm, tận dụng triệt để những ưu điểm của vận tải đường thủy nội địa. c) Đường bộ 15 Trong hệ thống logistics của mỗi quốc gia, vận tải đường bộ là một phương thức vận tải rất thông dụng và đường bộ là kết cấu hạ tầng rất quan trọng đối với việc chuyên chở hàng hóa. Trước hết là bởi vận tải đường bộ có tính linh hoạt và cơ động cao, tốc độ tương đối, không đòi hỏi phải có các qui trình kĩ thuật quá phức tạp như vận tải hàng không, thủ tục cũng thường đơn giản hơn, đặc biệt là có khả năng chuyên chở hàng hóa trực tiếp đến nơi giao hàng mà không nhất thiết phải liên kết với các phương thức vận tải khác. Không những thế, ngoài việc giao lưu hàng hoá trong nước và với nước ngoài, vận tải đường bộ còn hỗ trợ cho các phương thức vận tải khác trong việc vận chuyển kế tiếp ở hai đầu và là cầu nối, liên kết các phương thức vận tải với nhau, tạo thành một hệ thống vận tải thống nhất. Việc xây dựng các tuyến đường bộ không đòi hỏi nhiều vốn và vật tư như đường sắt. Kỹ thuật làm đường cũng không đòi hỏi trình độ kỹ thuật phức tạp như xây dựng đường sắt hay đường sân bay. Giá thành xây dựng đường bộ tương đối thấp, trong trường hợp chưa có nhiều vốn thì có thể xây dựng loại đường bộ cấp thấp với chi phí rất nhỏ. Trong điều kiện số lượng hàng hóa vận chuyển không lớn thì xây dựng các tuyến đường bộ là hợp lý nhất. Hiện nay, mạng lưới đường bộ thường dưới dạng 3 chiều hoặc mạng nhện. Tổng chiều dài, chất lượng và mật độ của đường bộ của một nước góp phần phản ánh năng lực của hệ thống logistics quốc gia nói riêng và trình độ phát triển kinh tế của nước đó nói chung. Khi phân loại hệ thống đường bộ, nếu căn cứ vào vật liệu làm đường: gồm đường đất, đường đá, đường bê tông và đường rải nhựa. Nếu căn cứ vào lãnh thổ: gồm đường liên huyện, liên tỉnh, quốc lộ, và đường bộ quốc tế. Nếu căn cứ vào giá cước vận tải: gồm đường bộ loại I, II, III, IV, V, mức giá cước tăng dần từ đường loại I đến đường loại V. 16

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net