Luận văn thạc sĩ ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật truyện ngắn nguyễn tuân trước cách mạng tháng tám 1945

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Luận văn thạc sĩ ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật truyện ngắn nguyễn tuân trước cách mạng tháng tám 1945

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM THÁI NGUYÊN VÕ VÂN HÀ NGÔN TỪ VÀ GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Chuyên ngành: Văn học Việt Nam hiện đại Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp THÁI NGUYÊN, NĂM 2009 Lời cảm ơn Xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp, Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, người Thày đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, định hướng cho tôi từ những bước đi đầu tiên trên con đường khoa học nghệ thuật, trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn thạc sĩ này. Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Ngữ Văn, các Thày giáo, Cô giáo các Khoa, Bộ môn, các phòng chức năng của Trường Đại học Sư phạm-Đại học Thái Nguyên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học. Xin trân trọng cảm ơn Ban Giám đốc, Phòng Thời sự, phòng Phát thanh Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Thái Nguyên đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp cao học. Xin chân thành cảm ơn và biết ơn sâu sắc đến toàn thể gia đình, người thân, anh chị em, bạn bè đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành khóa học. Xin trân trọng cảm ơn. Thái Nguyên, ngày 25 tháng 11 năm 2009 Tác giả Võ Vân Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................... 2 4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................... 7 5. Cấu trúc luận văn.................................................................................. 7 PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 8 CHƢƠNG 1: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT, NHÃN QUAN NGÔN NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TUÂN ............................... 8 1.1. Cái nhìn độc đáo về con ngƣời ....................................................... 8 1.2. Quan niệm về nhà văn và nghề văn ............................................. 19 1.3. Nhãn quan ngôn ngữ .................................................................... 29 CHƢƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT .......................................... 36 2.1. Vài nét về ngôn ngữ nghệ thuật ................................................... 36 2.2. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện ........................................................... 36 2.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện biết trước .................................... 37 2.2.2 Ngôn ngữ người kể chuyện hóa thân vào nhân vật ................. 40 2.3. Ngôn ngữ nhân vật ........................................................................ 41 2.3.1 Ngôn ngữ đối thoại ................................................................... 42 2.3.2. Ngôn ngữ độc thoại ................................................................ 50 2.4. Ngôn ngữ giàu màu sắc văn hóa ................................................... 51 CHƢƠNG 3 : GIỌNG ĐIỆU NGHỆ THUẬT ..................................... 59 3.1. Khái niệm giọng điệu .................................................................... 59 3.2. Các giọng điệu chính..................................................................... 59 3.2.1. Giọng điệu khinh bạc .............................................................. 60 3.2.2. Giọng điệu hoài tiếc ................................................................. 77 3.2.3 Giọng điệu triết lý ..................................................................... 81 KẾT LUẬN ................................................................................................. 89 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nguyễn Tuân là tác giả tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là một trong số không nhiều nhà văn đã tạo được cho mình một phong cách nghệ thuật độc đáo. Là một nghệ sĩ lớn, Nguyễn Tuân đã để lại sự nghiệp văn học đồ sộ với nhiều trang viết tài hoa, độc đáo. Năm 1996, ông vinh dự được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh. Từ trước đến nay, có nhiều huớng nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Tuân, nhưng tìm hiểu ngôn ngữ và giọng điệu nghệ thuật của ông lại chưa được chú ý thích đáng. Ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Đó là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình sáng tạo và cũng là yếu tố đầu tiên mà người đọc tiếp xúc khi đến với tác phẩm văn học nghệ thuật. Có lẽ vì thế mà M. Gorki đã viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tuợng của cuộc sống - là chất liệu của văn học”. [42, 215]. Ngôn ngữ, theo Martin Hedegeer là “Ngôi nhà của hữu thể”. Vì thế, khám phá ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân thực chất là tìm đến chiều sâu bản ngã và tài năng nghệ thuật của ông. Trong lễ trao giải thuởng cho những nhà văn được “Giải thuởng Hồ Chí Minh‟‟, nhà thơ Tố Hữu đã gọi Nguyễn Tuân là “Người thợ kim hoàn của chữ” [Báo Văn nghệ tháng 4 năm 1987]. Văn Nguyễn Tuân là một thế giới nghệ thuật phong phú, kỳ diệu, mới mẻ và bao giờ cũng đem lại cho người đọc một sự hứng thú đặc biệt. Hoài Anh nhận xét: “Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đến một độ cao hiếm thấy trong văn học Việt Nam’’ [48, 230] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 Có những người viết hàng chục quyển sách nhưng vẫn chẳng ai biết tên, nhớ mặt. Có những người chỉ viết vài bài thơ, vài truyện mà khắc được bóng dáng mình vào vĩnh cửu. Nguyễn Tuân là nhà văn được trời phú cho rất nhiều khả năng trong việc bộc lộ giọng điệu. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Văn chương Nguyễn Tuân đã làm cho văn giới Việt Nam phải chú ý đến lối hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tuởng phô diễn bằng những giọng tài hoa, sâu cay, khinh bạc, lúc thì đầy nghệ thuật, lúc thì bừa bãi lôi thôi, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy một trạng thái của tâm hồn”.[51, 426, 427] Tất nhiên khi nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta nhớ đến ông với tư cách ông vua trong thể tùy bút. Với tài năng nghệ thuật của mình, ông đã đưa tùy bút thành một thể văn sang trọng, lịch lãm. Bên cạnh đó, truyện ngắn của Nguyễn Tuân cũng không kém phần đặc sắc. Trong luận văn này, chúng tôi mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật của nhà văn trong truyện ngắn của Nguyễn Tuân trước năm 1945 để hiểu hơn sự đa dạng của ngòi bút độc đáo này. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nghiên cứu chung về Nguyễn Tuân Việc nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Tuân trải qua ba chặng sau đây: Trước năm 1945: Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng… Nhưng mãi đến đầu những năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua… Tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 quanh ba đề tài: “Chủ nghĩa xê dịch”, vẻ đẹp “Vang bóng một thời” và “Đời sống trụy lạc”. Ngay từ những năm 1940, nhà văn Thạch Lam qua tác phẩm “Vang bóng một thời” đã coi Nguyễn Tuân là “Một nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp”. Coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng nhưng Thạch Lam lại không đánh giá cao ngôn từ của Nguyễn Tuân trong tập truyện này. Năm 1942, Vũ Ngọc Phan trong quyển Nhà văn hiện đại đã gọi Vang bóng một thời là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”. “Ông là nhà văn đứng hẳn ra một phái riêng cả về hành văn lẫn tư tuởng”.[50, 427] Từ 1945 đến 1985: Từ sau cách mạng tháng tám năm 1945, Nguyễn Tuân đã thực sự chuyển mình về nhận thức và tư tuởng. Ông chân thành đem ngòi bút của mình phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ xã hội trên cương vị một nhà văn, đồng thời vẫn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy tính nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Sáng tác của ông thể hiện rõ sự chuyển mình trong nhận thức và tư tưởng của chính nhà văn. Một loạt tùy bút đã ra đời: Đường vui, Tình chiến dịch, Tùy bút Sông Đà, Tùy bút kháng chiến, Ngày cách mạng đầy tuổi tôi… Nghiên cứu về nghệ thuật, giai đoạn này đáng chú ý là bài viết của Trương Chính, Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Phan Cự Đệ… Tuy nhiên, phần lớn các bài viết này đều tập trung đánh giá tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân ở thể tùy bút, còn chưa quan tâm thật sâu đối với thể loại truyện ngắn. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân giai đoạn này chưa được đánh giá cao vì đọc chúng người ta vẫn nhận thấy bóng dáng của những con người cũ. Bên cạnh đó, phê bình văn học lúc bấy giờ quan tâm chủ yếu đến nội dung xã hội Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 học, không chú trọng mặt nghệ thuật ngôn từ. Gió Lào ra đời 1947 đã nhận được nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Trương Chính đã phê phán Nguyễn Tuân: “Sao mà kềnh càng đến thế? Bao nhiêu nỗi vui buồn trước mắt, thân thiết hơn, sao không nói! Ai còn có thì giờ đâu mà đi sâu vào lòng mình, mà ngồi chẻ sợi tóc làm tư. Mới đến cảnh gió Lào xứ Nghệ mà kéo bảy tám trang ròng! Nhắc đến đại đóa, hoa lay ơn, giữa khi xung quanh ngút khói lửa và vang tiếng đại bác, cối mìn! Thật là quá đáng”. Khác với ý kiến trên, Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định Nguyễn Tuân là nhà văn có tầm ảnh huởng lớn đến đời sống văn học nước nhà mấy chục năm qua: ông “là một hiện tượng văn học phức tạp, nhất là trước cách mạng tháng tám”. Tờ Văn hóa văn nghệ công an - số 10 năm 1997 có phỏng vấn nhà thơ Tế Hanh về những tác phẩm văn học Việt Nam thế kỉ XX mà ông sẽ chọn mang theo hành trang của mình vào thế kỷ XXI, nhà thơ đã không ngần ngại nêu lên đầu tiên đó là Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Sau năm 1986: Bước sang những năm 80, khi không khí văn học bắt đầu đổi mới thì vấn đề nghiên cứu văn phẩm Nguyễn Tuân lại khởi sắc và có nhiều cái nhìn mới thiện cảm hơn so với khoảng thời gian trước đó. Đây là giai đoạn Nguyễn Tuân được đánh giá toàn diện, thỏa đáng. Thời kì này các nhà nghiên cứu như: Phan Ngọc, Đỗ Đức Hiểu, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Minh Châu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Phong Lê, Tôn Thảo Miên, Hà Văn Đức… đã tiếp cận nghiên cứu tài năng của Nguyễn Tuân từ nhiều huớng khác nhau. Đặc biệt, sau khi Nguyễn Tuân mất, đã có hàng loạt bài viết về ông khẳng định Nguyễn Tuân là một trong những cây bút lớn nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu phê bình văn học và nhà văn đều thừa nhận tài năng thực sự của Nguyễn Tuân ''Một phong cách nghệ thuật độc đáo'' (ý kiến của Phan Cự Đệ), hay ''Bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ'' - nhận xét của Nguyễn Đinh Thi… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 N.I. Niculin - Tiến sĩ Viện văn học thế giới Nga đã gọi Nguyễn Tuân là ''nghệ sĩ ngôn từ''. Văn Nguyễn Tuân không chỉ thu hút sự quan tâm của những nhà văn trong nước mà còn làm say lòng nhiều nhà nghiên cứu văn học nước ngoài, đặc biệt là những nhà văn Liên Xô như: M.I Linxki, Mrian Tkachop. Qua đó cho thấy vị trí của Nguyễn Tuân trong lòng bạn bè năm châu trên thế giới. Trong điếu văn đọc trước tang lễ của Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyễn Đình Thi khẳng định: ''Cùng với những bạn cùng thời như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Nguyễn Tuân đã đặt viên đá riêng vào cái nền còn mới mẻ của văn xuôi tiếng Việt ta và viên đá của Nguyễn Tuân là một hòn đá tảng… sẽ chắc bền trong thời gian''. Hơn 50 năm cầm bút, trải qua những giai đoạn lịch sử quan trọng của nước nhà, từ chiến tranh khói lửa đến khi lập lại hòa bình và những năm đầu đổi mới xây dựng đất nước, Nguyễn Tuân đã nhận được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc, nhà phê bình. Tuy có nhiều ý kiến khen, chê khác nhau nhưng tất cả mọi ý kiến thống nhất khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. 2.2. Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Tuân Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ ở đây không phải là phương tiện giao tiếp tự nhiên hằng ngày của đời sống mà là thứ ngôn ngữ được lựa chọn, sáng tạo theo chủ quan của người nghệ sĩ để phục tùng các nhiệm vụ nghệ thuật tác phẩm. Một tác phẩm văn học có trở thành kiệt tác, ghi đậm dấu ấn trong lòng độc giả hay không, có trở thành món ăn tinh thần của dân tộc hay không, không chỉ tùy thuộc vào nội dung tu tuởng mà còn phụ thuộc vào chất luợng hình thức biểu hiện ngôn từ. Ngôn từ chính là yếu tố quan trọng bậc nhất của hình thức biểu hiện đó. Đáng chú ý là một số bài viết như: Nguyễn Tuân - Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 Nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa của Hoài Anh; Nguyễn Tuân - Bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam của Mai Quốc Liên; Về truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân của Văn Tâm; Thầy chữ Nguyễn Tuân của Hà Bình Trị, Như một ông lão thợ đấu của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân- chuyên viên tiếng Việt của Nguyễn Đăng Điệp in trong cuốn Chân dung nhà văn Việt Nam hiện đại, nhà xuất bản Giáo dục 2005. Giọng điệu nghệ thuật Nguyễn Tuân cũng được một số nhà nghiên cứu chú ý. Luôn chất chứa những mâu thuẫn trong nội tâm, tư tưởng nên văn Nguyễn Tuân là thứ văn đa giọng điệu như: giọng trào phúng, trữ tình, hoài tiếc, triết lý, khinh bạc. Nhắc đến giọng điệu Nguyễn Tuân không thể không nhắc đến giọng khinh bạc, đây là giọng điệu nổi bật nhất giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Ngoài ra có nhiều công trình, luận án, luận văn quan tâm đánh giá, nghiên cứu toàn diện hoặc nhiều khía cạnh nội dung, nghệ thuật tác phẩm Nguyễn Tuân như: Ngôn từ nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Tuân của Nguyễn Thị Ninh- năm 2004. Tuy nhiên, riêng về phương diện ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám 1945 hiện chưa có công trình nào nghiên cứu thật toàn diện và cụ thể. Đây là một “khoảng trống” mà chúng tôi hi vọng sẽ phần nào bù đắp được qua quá trình thực hiện luận văn này. 3. Đối tuợng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tuợng nghiên cứu Chúng tôi đặt vấn đề tìm hiểu đặc điểm ngôn từ và giọng điệu nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong toàn bộ truyện ngắn của ông trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Về tư liệu chúng tôi dựa vào quyển Nguyễn Tuân - truyện ngắn do Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2006. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để hiểu hơn tài năng của Nguyễn Tuân, một mặt chúng tôi cố gắng bao quát toàn bộ sáng tác của Nguyễn Tuân kể cả phê bình và tiểu luận văn học của ông; mặt khác, chúng tôi sẽ tiến hành so sánh truyện ngắn của Nguyễn Tuân với một số tác giả khác để làm nổi rõ hơn tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu, trong luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp chính như sau: 4.1. Phương pháp cấu trúc – hệ thống 4.2. Phương pháp so sánh 4.3. Phương pháp phân tích tác phẩm. 4.4. Vận dụng thi pháp học. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, cấu trúc của luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Quan niệm nghệ thuật và nhãn quan ngôn ngữ của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn trước cách mạng tháng Tám Chương 2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám Chương 3. Giọng điệu nghệ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT, NHÃN QUAN NGÔN NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN TUÂN 1.1. Cái nhìn độc đáo về con ngƣời Macel Proust - nhà văn Pháp nổi tiếng với tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất quan niệm: “Đối với nhà văn cũng như đối với nhà họa sĩ phong cách không phải là vấn đề kĩ thuật, mà là vấn đề cái nhìn. Như vậy cái nhìn chi phối hình thức nghệ thuật của tác phẩm, chi phối phong cách tác giả. Cái nhìn từ phạm vi tri giác tuy có cội nguồn cảm giác nhưng là một cái nhìn có tính tự túc một lãnh hội ý tưởng”. Ngôn ngữ thì chung nhưng cái nhìn của mỗi nhà văn lại có sự khác nhau, sự khác nhau đó được thể hiện qua cách sử dụng ngôn từ của nhà văn ấy. Cuộc sống vốn tồn tại muôn màu, muôn vẻ. Con người cũng có vô vàn trạng thái tâm lý, cảm xúc khác nhau. Có những trạng thái tình cảm của con người mà ngôn ngữ thông thường không sao biểu đạt được một cách chính xác, đầy đủ. Người nghệ sĩ tài hoa phải là người viết được tình cảm ấy lên trang giấy bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình. Cái nhìn nghệ thuật chính là nền tảng vững chắc để người nghệ sĩ tạo dựng cho mình một hệ thống ngôn từ riêng, qua sự lựa chọn, chắt lọc ngôn ngữ chung. Trước sự vật, hiện tượng, mỗi nhà văn có suy nghĩ, sự cảm thụ, liên tưởng, tưởng tượng khác nhau, điều đó đã quy định cái nhìn nghệ thuật cũng có sự khác nhau. Cùng viết về những nỗi thống khổ của con người trong xã hội thực dân nửa phong kiến trước cách mạng, nhưng mỗi nhà văn lại có cái nhìn nghệ thuật khác nhau nên con người trong tác phẩm của mỗi nhà văn ấy lại hiện lên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 ở những góc độ, khía cạnh, mang theo số phận khác nhau. Vũ Trọng Phụng đã nhìn cuộc đời qua lăng kính hiện thực, ông quan niệm “Đời là chó đểu, là khốn nạn”. Bằng nghệ thuật trào phúng độc đáo, sử dụng những chi tiết cường điệu, lối dắt dẫn bất ngờ, nhà văn đã khắc sâu chân dung nhân vật biếm họa để hạ nhục, vạch trần bộ mặt của bọn người hữu danh vô thực, bọn trọc phú dâm ô dốt nát. Đó là Xuân tóc đỏ trong Số đỏ, Nghị Hách trong Giông tố. Bà Phó Đoan được tặng bằng tiết hạnh vì “thủ tiết với hai đời chồng”. Một kẻ vô học, hạ lưu, lưu manh như Xuân tóc đỏ thì lại được cả xã hội thuợng lưu tung hô, công nhận, “Xuân tóc đỏ vạn tuế”. Thông qua những ngôn từ ấy, Vũ Trọng Phụng đã vung làn roi quất mạnh vào sự nhố nhăng đồi bại của cái xã hội thuợng lưu chó đểu, vô nghĩa lý, trong đó con người sống với nhau chỉ vì đồng tiền, giả dối, rởm hợm, vô lương tâm, không tình nghĩa. Nam Cao, Nguyễn Công Hoan đều nhìn cuộc đời là một sân khấu hề, một môi truờng hà khắc, đen tối, tàn bạo khiến con người phải gồng mình, xù lông lên để chống đỡ, để thích nghi, hoặc thu mình lại trong góc riêng nếu không muốn mình bị tha hóa. Nam Cao phân tích con người là nạn nhân của xã hội phi nhân tính ấy, đẩy người ta vào bước đường cùng và cuối cùng đã bị chính xã hội vô nhân đạo biến thành một con người khác. Nhân vật của ông là tầng lớp trí thức tư sản, họ mang trong mình những uớc mơ, hoài bão lớn lao về tương lai, hay những người nông dân nghèo khổ, sống trong cái nghèo, tất cả bọn họ đều bị xã hội vùi dập, bóp nghẹt sự sống, cố vẫy vùng nhưng không tài nào thoát ra được. Chí Phèo đã ngật ngưỡng buớc ra từ những trang sách của Nam cao khiến cho cả xã hội phải giật mình về sự nghiệt ngã của chính nó, đã đẩy anh nông dân chân chất, hiền lành ngày nào trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chuyên đi rạch mặt ăn vạ, một sự tha hóa đáng sợ. Cho dù Chí Phèo muốn làm lại cuộc đời, muốn tìm được hạnh phúc cho riêng mình, nhưng Thị Nở, bà cô Thị Nở hay cũng chính là sự miệt thị, ghẻ lạnh của xã hội đã đẩy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Chí đến sâu thẳm của đáy vực. Chí đã vác dao đến nhà Bá Kiến để đòi lại sự lương thiện, nhưng ai có thể trả lại sự lương thiện cho Chí. Nguyễn Công Hoan nhìn thấy sự phá hoại nhân cách ở tầng lớp quan lại, giàu có, quyền thế, sử dụng địa vị của mình để chà đạp lên những người dân thấp cổ bé họng. Nói đến Nguyễn Tuân, người ta nghĩ ngay đến một cây bút nổi bật của xu huớng văn học lãng mạn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Đó là một nhà văn của quan điểm duy mỹ, nghiêng nhiều về phía vị nghệ thuật. Đối với Nguyễn Tuân, văn chương và nghệ thuật đứng trên mọi thứ thiện ác ở đời. Suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nguyễn Tuân luôn khao khát vươn tới cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Tùy theo thái độ phản ứng lại đối với thực tại đời sống và cách tìm lối thoát của các nghệ sĩ, chủ nghĩa lãng mạn được chia thành những khuynh huớng khác nhau: khuynh hướng tiêu cực với thái độ bi quan về thực tại, tình cảm chán chường và hoài niệm về quá khứ; khuynh hướng thứ hai là khuynh hướng tích cực, tràn trề niềm tin vào cuộc sống thực tại, tương lai, lạc quan về nhân thế và khả năng sáng tạo đời sống.[42, 87] Nguyễn Tuân và Thạch Lam cùng chủ nghĩa lãng mạn theo khuynh hướng thứ nhất. Điểm chung của hai nhà văn này là yêu vẻ đẹp cổ xưa, cùng hướng ngòi bút về cội nguồn văn hóa truyền thống của dân tộc. Đều là nhà văn thuộc trường phái lãng mạn chủ nghĩa, nhưng giữa hai cây bút Thạch Lam và Nguyễn Tuân lại có cái nhìn khác nhau. Đương thời Thạch Lam là người không ưa sự hào nhoáng, bóng bẩy mà yêu thích sự bình dị, kín đáo. Điều này đã ăn sâu vào tâm hồn nhà văn, nên chúng ta dễ dàng nhận thấy nhân vật của Thạch Lam là nhân vật của cuộc sống, đa phần thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội (Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ), những người phụ nữ mang số phận bất hạnh (Cô hàng xén, Tối ba mươi, Hai lần chết), có tầng lớp tiểu tư sản (Một cơn giận, Cái chân què, Cuốn sách bỏ quên, Sợi tóc), có cả người giàu có (Người đầm, Trở về). Thạch Lam cũng không phải là con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 người hành động nên những nhân vật của ông thường thiên về suy nghĩ, bộc lộ cảm xúc nội tâm, mang đặc điểm đúng với phong cách Thạch Lam. Đó là sự tinh tế, đa cảm, thiết tha, chịu thương, chịu khó. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân đa dạng và có sự thay đổi theo thời gian. Trước cách mạng, Nguyễn Tuân căm ghét xã hội thực dân thối nát, bóp chết uớc mơ, khát vọng tuổi trẻ, ông đã phủ nhận thực tại bằng cách quay về quá khứ với quá khứ vàng son. Giống như nhiều nhà văn lãng mạn khác, Nguyễn Tuân đã tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề cao cái đẹp thuần túy. Xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng tám đầy cạm bẫy, xấu xa, lừa lọc, tất cả những điều ấy bủa vây xung quanh những văn nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Tuân. Quá khó nếu không nói là không thể tìm được cái đẹp trong xã hội ấy. Việc Nguyễn Tuân chọn những vẻ đẹp trong quá khứ làm đề tài sáng tác khiến nhiều nhà phê bình gay gắt lên tiếng phê phán Nguyễn Tuân. Họ cho rằng ông đã quay lưng lại với đất nước, trong khi cả dân tộc đang phải gồng mình, đổ máu để chiến đấu chống lại kẻ thù thực dân thì ông lại chạy trốn, không hòa nhịp với dân tộc. Bản thân Nguyễn Tuân là một người tài hoa, tài tử, yêu cái đẹp, đẹp hình thức, đẹp tâm hồn. Ông có cái nhìn lý tuởng hóa về con người nên những nhân vật của Nguyễn Tuân đều là những người tài hoa, tài tử, phi thường, những bậc chính nhân quân tử, mang trong mình các giá trị văn hóa, đậm đà bản sắc dân tộc. Những con người ấy không chấp nhận thực tại đen tối của xã hội, có sự phản ứng quyết liệt chống lại hoàn cảnh bằng những hành động phá phách, ngang tàng, khác đời, khác người. Nguyễn Tuân tạo ra những con người có cuộc sống riêng, chống lại khủng hoảng, dằn vặt, thất vọng. Xây dựng những nhân vật ấy, Nguyễn Tuân đã tỏ lòng mình cho thiên hạ thấy, không phải ông chạy trốn thực tại mà thể hiện lòng tự hào dân tộc, ý thức giữ gìn những nét độc đáo của văn hóa Việt, lưu giữ giá trị thẩm mỹ dân tộc cho con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 cháu đời sau. Thời gian có thể qua đi, nhưng những vẻ đẹp cổ xưa vẫn còn mãi mãi trong tác phẩm của ông. Với cái nhìn lý tưởng về con người và là “Ngòi bút huớng nội nhất trong các cây bút văn xuôi lãng mạn Việt Nam” ( ý kiến của Văn Tâm trong bài Về truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân)[48, 291] nên những nhân vật của ông không thể là những con người bình thuờng mà phải chí khí hơn người. Điển hình là nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Huấn Cao ''văn võ đều có tài cả'', đức tài gồm đủ trí dũng song toàn. Ông bị bắt vào ngục cũng chỉ vì muốn chống lại sự vô lý của cường quyền để rồi sa cơ lỡ vận trở thành kẻ tử tù suốt ngày đêm cổ đeo gông, chân vướng xiềng. Xây dựng Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã nhấn mạnh vào yếu tố thiên lương và đề cao tài năng đặc biệt hơn người của ông là ở tài thư pháp. Mở đầu truyện, chúng ta bắt gặp cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, qua đó hé mở về kẻ tử tù xấu số chuẩn bị đưa đến nhà lao: ''Này thầy bát, cứ công văn này thì chúng ta sắp nhận được sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao. Tôi nghe ngờ ngợ. Huấn Cao? Hay là cái người mà người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp đó''. ''Thầy liệu cái buồng đó có cầm giữ nổi một tên tù có tiếng là nguy hiểm không? Thầy có nghe thấy người ta đồn là Huấn Cao, ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa vượt ngục nữa không?'' . Thầy thơ lại ít học đã xót xa, thương cảm cho số phận của ông Huấn: ''Dạ bẩm, giả thử tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà lấy thương tiếc''. [58, 130, 131] Cái tài viết chữ của ông Huấn thì nổi tiếng khắp nơi, vậy mà ít ngày nữa tài năng của ông lại bị chôn vùi bởi sự nghiệt ngã của số phận. Có được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 chữ của ông Huấn trở thành khát vọng lớn nhất của ngục quan lúc này. Cảm trước con người tài hoa ấy, viên quản ngục đã biệt đãi Huấn Cao, sự đối đãi đặc biệt mà chưa một kẻ tử tù nào có được. ''Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem ruợu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù. Mỗi lúc dâng ruợu, với thức nhắm, người thơ lại lễ phép nói: Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây, lạnh lắm‟‟. Nhưng ông Huấn nhận nó một cách thản nhiên, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm. Và thẳng thắn, hiên ngang có phần cay nghiệt khi trả lại sự đối đãi của ngục quan: ''Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng có đặt chân vào đây''. [58, 134] Khi nhận thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục, kẻ biết trọng người tài hẳn không phải kẻ xấu. Ông Huấn đã quyết định cho chữ viên quản ngục. Và khuyên viên quản ngục: “Ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy Quản nên thay chỗ ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, nó nói lên những hoài bão tung hoành của đời con người… Tôi bảo thực đấy: thầy Quản nên tìm về quê mà ở đã, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững, và rồi cũng đến nhem nhuốc cái đời lương thiện đi”. Những câu nói chân tình ấy cũng chính là tấm lòng của nhà văn. Bằng bút pháp lãng mạn, Nguyễn Tuân đã tạo nên hình tuợng người anh hùng Huấn Cao có một không hai. Nhân vật Huấn Cao được xây dựng từ nguyên mẫu có thực ở ngoài đời là Cao Bá Quát, dạy học đất Tây Sơn từ trăm năm trước, duới xã hội xứ Đoài thời ông Huấn - triều đại Thiệu Trị, Tự Đức cũng chính là xã hội Việt Nam thời Nguyễn Tuân đang sống. Qua đó, nhà văn thể hiện tình yêu nước sâu sắc đến khắc khoải của mình. Người nghệ sĩ chân chính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 ấy đã không xưng mình là người yêu nước, quay trở lại với quá khứ chính là để tìm lại những giá trị dân tộc đang dần phai mờ. Tình cảm của Nguyễn Tuân chính là ở chỗ ấy, thực kín đáo và đáng trân trọng biết bao. Những tác phẩm thuộc thể tài Yêu ngôn được ra đời vào giai đoạn sáng tác bế tắc nhất Nguyễn Tuân. Lúc này, Nguyễn Tuân nhìn đời như một sân chơi quái đản, kì dị, vô hồn, trống rỗng. Nhưng một điều dễ nhận ra là ngay cả khi tâm lý bị đè nặng bởi sự u uất thì nhân vật của ông vẫn là những con người mang số phận dị biệt và có tính cách, tài năng phi thường. Nhân vật Bát Lê trong Bữa Rượu máu gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc về lối chém treo ngành. Y có cái tài chém đầu người, chỉ bằng một nhát gươm mà đầu vẫn dính vào cổ lần da gáy. Một nỗi niềm thương cảm, xót xa lan tỏa trong lòng mỗi người, tiếc cho số phận một kẻ tài hoa, tài tử mà mệnh bạc. Cái cậu Ấm Đới trong Đới Roi đã từng dám đem bán bộ chén ngọc liệu của dòng họ để sắm màn Hồng Kông cho người tình, còn bao nhiêu thì đem uống sâm banh dần với tình. Nay sa cơ lỡ vận, để sự nghiệp tiêu tan theo giọng hát tiếng đàn phải sống bằng nghề chuốt roi chầu, vót gọng ô nan hoa xe đạp làm tiêm bán cho các tiệm ấy đã không chấp nhận mãi lòng thương hại của người đời đã lựa cho mình cái chết ra đi trong sự thanh thản. Cái chết của cậu Ấm đã khẳng định nhân cách, lòng tự trọng của một người tài tử. Những dòng viết về hồn ma báo oán hai anh em ông Đầu Xứ trong Khoa thi cuối cùng chỉ chiếm một dung lượng nhỏ trong tác phẩm, nhưng lại được Nguyễn Tuân dành cho sự ưu ái đặc biệt khi trao cho nhân vật phụ này số phận của “một người nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời”. Nhân vật Bố Ô trong Rượu bệnh được xây dựng rất gần gũi với người hành khất cao sang, am hiểu nghệ thuật uống trà trong Những chiếc ấm đất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Bố Ô được mệnh danh là một “Kì nhân không biết đói chỉ thấy khát ruợu”. Nhưng con người ấy lại có cái tài riêng của mình trong nghệ thuật nếm ruợu độc nhất vô nhị: "Mỗi buổi sớm lúc trời đất còn lờ mờ, ông cụ đã ngồi sẵn ở các cửa ô Hà Nội, đồ vật đem theo chỉ vẻn vẹn một cái ghế gỗ và một cái chén gỗ to gần bằng cái lồng gỗ mít đóng oản của nhà chùa. Ông ngồi đấy để đợi các cô gái vùng Bồ Đề qua đò ngang ghé vào lối Ô Quan Chưởng, để thưởng thức rượu mà không mất tiền''. Cách uống rượu của Bố Ô quả thực là độc đáo đến hiếm thấy, quá đỗi kì lạ. Lão nhắm ruợu với một cái đinh. “Cái đinh đóng thuyền chấm vào chén ruợu mút đánh chụt một cái rất gọn”. Rồi các cô gái bán ruợu cũng phát hiện ra cái trò nếm rượu chằng của ông già tinh quái kia, luôn nếm thử nhưng không bao giờ mua cả thì họ lại tự nguyện “mỗi buổi mai cấp cho ông già đầy một chén ruợu gỗ” và họ coi việc đó như để mở hàng, lấy may cho một ngày buôn bán. Bố Ô ''uống ruợu ngon tệ, cứ ngọt xớt đi thôi''.[58, 270] Đây là hình tượng độc đáo trong thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân, cách uống rượu Bố Ô cũng rất nghệ thuật, nó như một thú thưởng thức cao sang mà không phải ai cũng thưởng thức được. Bố Ô hư hư thực thực, huyền ảo giữa thế giới thực và thần tiên, kẻ phàm tục, nghèo hèn và thanh tao, đẹp đến lạ lùng. Một người chìm đắm miên man trong những cơn say như Bố Ô lại dám một mình xông vào tận dinh quan Thượng, ''cái kẻ quyền trấn một góc trời, lấy đầu người trị hạ cứ dễ như bỡn'' la hét huyên náo đòi lại công bằng cho một cô Cốm. Chẳng biết ông đã nói gì nhưng đứng ngoài vòng dinh, mọi người nghe thấy tiếng quan Thượng mắng lũ lính canh đã để thích khách vào. Hôm sau, ông già được tha ra về và ngay sau đó cô Cốm cũng được trả về cuộc đời cũ nơi thôn ổ. Chí Phèo của Nam Cao cũng say, nhưng cũng có lúc Chí đã tỉnh để nhận ra sự xấu xa của xã hội. Còn Bố Ô thì chìm đắm trong những cơn say triền miên, say vô tận. Khi bị ngọn lửa vô tình thiêu cháy, ''Xác Bố Ô nứt đến đâu là mùi thịt thui ấy thơm lừng như mùi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16 cá mực nướng bằng ruợu không có chút gì là hôi khét cả. Và lúc mà lửa đã hoại xong cái xác kia thì cỗ xương ấy bệch ra như thạch cao ải vụn ra trông trắng nhỏ không khác gì thứ bột để luyện những hòn men''.[58, 284] Còn chiếc chén gỗ của Bố Ô sau vụ hỏa hoạn vẫn còn nguyên, sau vào tay một vị Thái bộc mang theo luôn trong người để phòng việc hỏa hoạn. Nguyên Tuân đã khoác lên bộ ba nhân vật Cai Xanh, Lý Văn, Phó Kình- những tấm áo anh hùng chốn giang hồ, lấy tiền bạc của bọn bất nghĩa chia cho dân nghèo trong Một đám bất đắc chí. Để độc giả không sao quên được huyền sử bao quanh con dao thép hai lưỡi sáng ngời và huyền sử chạy chung quanh cái hộp đựng thuốc lào trạm trổ tỉ mỉ cái mặt hổ phù của Cai Xanh, cái tài ném bút chì của Phó Kình: “Bỗng sau một tiếng phập, thân trên cây chuối đã gục xuống mặt đất, kêu đánh roẹt”[58, 145] hay tiếng lưỡi mai ở tay Lý Văn phóng ra kêu đánh vụt, một tiếng gà kêu oác. Nguyễn Tuân là người yêu cái đẹp, nhạy cảm với cái đẹp, ông nhìn sự vật hiện tượng nghiêng về góc độ thẩm mỹ. Bởi là người tài hoa nên Nguyễn Tuân yêu quý những con người tài hoa. Nhà văn đã dành trọn tâm huyết của mình để xây dựng nên những cụ Nghè, cụ Thượng, cụ Ấm. Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, họ hiện lên là những người sống thanh cao, biết yêu và thuởng thức cái đẹp, nâng niu giá trị văn hóa dân tộc chứ không phải là lớp quan hám danh lợi, phú quý. Cụ Ấm trong Chén trà sương là một nhân vật điển hình cho lớp người này, cụ thích uống trà trong sương sớm và pha với thứ nước đọng trên lá sen. ''Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý''.[58, 149] Cụ Ấm nói về nghệ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17 uống trà đầy say mê, tuởng như đó là cuộc sống của cụ. Với cụ Ấm pha trà không đơn thuần chỉ là pha cho đúng cách mà được nâng lên như một lễ nghi, nó chứa đựng cả mùi thơ, mùi triết lý về cuộc đời. Và phải là người yêu nghệ thuật pha trà, biết thuởng thức trà thì mới cảm nhận được sự tinh túy trong mùi thơm của ấm trà. Gia đình cụ Ấm dạo khó khăn đã phải cất hẳn bộ trà vào tủ, tưởng không bao giờ được lấy ra hằng ngày nữa. Năm nay, nhà cụ Ấm được cả hai vụ mùa, vậy là bộ trà lại được mang ra dùng, kể như trời còn hậu đãi người hàn nho. Việc được mang bộ trà ra dùng là một niềm hạnh phúc lớn lao với gia đình cụ Ấm, một sự bình yên cho năm cũ qua đi năm mới lại bắt đầu. Nguyễn Tuân đã ca ngợi cụ Kép làng Mọc trong Hương cuội “nguyện đem quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự lư hoa thơm cỏ quý”. “Cụ Kép là người thích uống ruợu ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để duỡng lấy tính tình… Cụ Kép thuờng nói với lớp bạn cũ rằng có một vườn hoa là việc dễ dàng, nhưng đủ thời gian mà săn sóc đến hoa mới là việc khó. Cụ muốn nói rằng người chơi hoa nhiều khi phải lấy cái chí thành khí tình ra mà đối đãi với với giống hoa cỏ không bao giờ biết lên tiếng kia. Như thế mới phải đạo cái đạo của người quân tử‟‟[58, 125]. Chơi hoa mà phải đạt đến đạo, chứng tỏ cụ Kép không phải là người chơi hoa đơn thuần mà chơi hoa cũng là cả một nghệ thuật, một phần cuộc sống của cụ. Cái tiệc Thạch lan hương của cụ vào ngày nguyên tiêu cũng là một lối chơi đầy vẻ lễ nghi, cầu kì, khác người, uống ruợu nhắm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha trong mùi lan thoang thoảng khắp vườn. Còn cụ Sáu trong Những chiếc ấm đất chỉ uống trà bằng nước giếng pha trên chùa Đồi Mai. Cụ không bước chân đi đâu xa được vì không đem theo được nước giếng chùa và thề rằng giếng chùa mà cạn thì sẽ cho ngay người nào muốn xin bộ đồ trà quý báu và dám cả gan đánh đổi sản nghiệp lấy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net