Về quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại công ty bảo hiểm dầu khí đông đô

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Về quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại công ty bảo hiểm dầu khí đông đô

LỜI MỞ ĐẦU Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới như hiện nay, xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc là thiết yếu đối với nước ta. Bên cạnh đó, từ khi Việt Nam tham gia vào WTO, ngày càng có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư vốn hay trực tiếp xây dựng các công trình, dự án khác nhau. Hiện nay những hiểm họa thiên tai, lũ lụt và cả những rủi ro do con người gây ra như cháy nổ, sai sót trong thiết kế… thì những thiệt hại kinh tế gây ra thật khó lường. Nhận thức sự cần thiết phải bảo hiểm cho những rủi ro này, các nhà đầu tư đã đến với các doanh nghiệp bảo hiểm. Khi đó triển vọng với ngành bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm kỹ thuật nói riêng đã thực sự mở ra. Đây cũng là mối quan tâm lớn của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Vấn đề nghiên cứu, cải tiến hiệu quả quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này giúp các công ty bảo hiểm sử dụng để cạnh tranh trên thị trường. Nhận thấy vị trí quan trọng và sự cần thiết to lớn của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt em chọn đề tài “Về quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô” làm chuyên đề thực tập của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm 3 phần chính: Chương I: Lý luận chung về bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Chương II: Thực tế triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt ở Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô. Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hoàn thiện quy trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí Đông Đô. CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÂY DỰNG VÀ LẮP ĐẶT I. Lịch sử hình thành và phát triển của bảo hiểm xây dựng lắp đặt 1. Quá trình hình thành và phát triển Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Trong suốt quá trình phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển của bảo hiểm kỹ thuật. So với các loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm hỏa hoạn thì bảo hiểm kỹ thuật ra đời muộn hơn rất nhiều. Bảo hiểm hàng hải xuất hiện năm 1547, Bảo hiểm hoả hoạn xuất hiện năm 1667, trong khi đó đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế giới là đơn bảo hiểm đổ vỡ máy móc được cấp năm 1859. Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và kỹ thuật là động lực thúc đẩy Bảo hiểm kỹ thuật phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết và đồng thời nó cũng trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng không thể thiếu đối với sự phát triển của bất cứ nền kinh tế nào. Bảo hiểm kỹ thuật hiện nay đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của hoạt động kinh tế, xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm các máy móc trong hoạt động sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong y tế, trong phòng thí nghiệm cho tới việc bảo hiểm cho các công trình xây lắp khổng lồ như bến cảng, sân bay hay lắp đặt các tàu biển cỡ lớn các giàn khoan trên biển, và cho cả những con tàu vũ trụ. Munich Re, cho đến nay vẫn đứng trong những công ty tái Bảo hiểm hàng đầu thế giới và được coi là một trong những công ty đã sáng lập và phổ biến rộng rãi loại hình bảo hiểm kỹ thuật. Ngày nay, hầu hết các công ty Bảo hiểm trên thế giới thực hiện nghiệp vụ này đều áp dụng quy tắc Bảo hiểm của Munich Re Đơn bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng hay đơn bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu đầu tiên được cấp vào năm 1929 để đảm bảo cho việc xây dựng cầu Lamberth bắc qua sông Thames, không lâu sau đó đã xuất hiện đơn Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt. Tuy nhiên, cả hai đơn bảo hiểm này chỉ giành được vị trí quan trọng trong giai đoạn xây dựng sau chiến tranh thế giới năm 1945 và công cuộc phát triển sau đó trên thế giới của các nền kinh tế đang nổi. Sự phát triển mạnh mẽ của thương mại và công nghệ ngày càng thúc đẩy việc đưa ra các phạm vi bảo hiểm mới hơn, phức tạp hơn. Và cho đến hiện nay bảo hiểm kỹ thuật đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, bao gồm các loại hình chính sau: - Bảo hiểm mọi rủi ro cho chủ thầu; - Bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt; - Bảo hiểm đổ vỡ máy móc; - Bảo hiểm thiết bị điện tử; - Bảo hiểm mất thu nhập do máy móc ngừng hoạt động; - Bảo hiểm thăm dò và khai thác dầu khí. Như vậy, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là một bộ phận của bảo hiểm kỹ thuật. Sự ra đời của nó đã đảm bảo an toàn cho các công trình xây dựng và lắp đặt hạn chế những rủi ro có thể do thiên tai đem lại như : Mưa bão, lũ lụt, động đất, núi lửa ... hoặc những sự cố do con người gây ra như sai lầm trong thiết kế, sai lầm của người trực tiếp thi công, khuyết tật của nguyên vật liệu ...Trên thực tế, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là những mắt xích không thể thiếu được trong bảo hiểm kỹ thuật. Nó đảm bảo cho khâu xây dựng và lắp đặt của một công trình xây dựng. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là những loại hình có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô cũng như chất lượng nghiệp vụ do nhu cầu xây dựng và lắp đặt của các nước trên thế giới ngày càng có xu hướng phát triển ngay cả trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Tại Việt Nam, trước những năm 1970, chính quyền Sài Gòn cũ đã thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Thời kỳ này, thị trường bảo hiểm Sài Gòn chịu ảnh hưởng lớn của thị trường bảo hiểm Mỹ. Các công trình xây dựng - lắp đặt được Bảo hiểm lúc bấy giờ chủ yếu là nhà tư nhân của một số tướng tá cấp cao trong quân đội Mỹ và chính quyền tay sai. Bởi vì không đảm bảo được nguyên tắc “số đông bù số ít” nên nghiệp vụ này không phát triển. Cho đến năm 1980, nghiệp vụ này bắt đầu được chú ý ở miền Bắc, Bảo Việt đã cử một số người sang Đức để học tập và nâng cao trình độ nghiệp vụ. Tuy nhiên, nghiệp vụ này vẫn chưa được đưa vào thực tế vì cho đến năm 1986, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Các công trình xây dựng - lắp đặt có quy mô lớn chủ yếu thuộc sở hữu Nhà nước, được Ngân sách Nhà nước bao cấp. Nếu như chẳng may rủi ro xảy ra gây thiệt hại thì đã có Nhà nước gánh chịu. Hơn nữa, giai đoạn này đầu tư nước ngoài vào Việt Nam còn quá ít nên loại hình bảo hiểm xây dựng và lắp đặt cũng như các loại bảo hiểm khác vẫn chưa được quan tâm tới. Chỉ đến sau đại hội VI (1986), khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới toàn diện thì bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mới thực sự được quan tâm, phát triển. Sự ra đời của Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam năm 1987 là cột mốc đầu tiên đánh dấu tiềm năng to lớn của Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Việt Nam . Bảo Việt là Công ty bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Khi Bộ Tài chính ban hành quyết định số 253/TCQĐ-91 cho phép tiến hành nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt thì Bảo Việt và các công ty Bảo hiểm địa phương của nó bắt đầu triển khai. Theo sau đó là hàng loạt các Thông tư, Quyết định của Bộ tài chính được ban hành nhằm bổ sung hoàn thiện cho việc triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt tại Việt Nam. Đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên được cấp ở Việt Nam là đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt cho trạm thu phát vệ tinh mặt đất Láng Trung. Kể từ đó, nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng và lắp đặt ngày càng phát triển và trở thành một trong những loại hình Bảo hiểm mũi nhọn của các Công ty Bảo hiểm trong toàn quốc. Tuy nhiên, ban đầu kết quả đạt được chưa cao, hầu như chỉ có các công trình xây dựng có vốn đầu tư nước ngoài tham gia Bảo hiểm, còn các công trình của Nhà nước do Nhà nước quản lý, chủ công trình chưa có ý thức tham gia Bảo hiểm. Chỉ đến khi có Nghị định số 177/CP ra ngày 20-10-1994 và Thông tư số 105/TC/ĐT được ban hành, tại mục 1, điều 52 quy định : “ Chủ đầu tư phải mua Bảo hiểm cho công trình” thì nghiệp vụ này mới thực sự có đà phát triển. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt Sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đưa nền kinh tế thế giới phát triển vượt bậc, nâng cao chất lượng đời sống của con người. Khi đó, nhu cầu về Bảo hiểm tăng lên rất nhanh trên nhiều lĩnh vực trong đó phải kể đến sự tăng trưởng của nghiệp vụ Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. Các dự án và các công trình xây dựng đòi hỏi phải có sự đảm bảo về mặt tài chính nhằm tiến triển liên tục nhanh chóng và có hiệu quả. Bên cạnh đó, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đặc biệt kỹ thuật xây dựng dân dụng, do yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao, giá trị công trình ngày càng lớn và cùng với nó là sự phát sinh của nhiều rủi ro kỹ thuật, kinh tế trong quá trình xây dựng nên đã dẫn đến đòi hỏi cấp thiết việc phát triển và mở rộng loại hình bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Mặt khác, trong giá đưa ra đấu thầu, các công ty hay các hãng thầu không thể tính được đầy đủ khoản tiền dự trữ đề phòng cho các tổn thất xảy ra khi xây dựng công trình. Trong khi đó nhà bảo hiểm có thể tính toán chính xác hơn nhiều số phí bảo hiểm của công trình so với so với việc dự kiến số tiền đề phòng tổn thất của các nhà thầu. Hơn nữa, quy luật của bảo hiểm là lấy số đông bù số ít nên phí bảo hiểm sẽ không cao. Như vậy bảo hiểm xây dựng lắp đặt ngoài ý nghĩa quan trọng là việc đóng góp vào hạ giá thành công trình còn đảm bảo mặt tài chính cho các bên có liên quan tới công trình được xây dựng. Các rủi ro trong bảo hiểm kỹ thuật rất đa dạng, từ các rủi ro do thiên tai như : Mưa bão, lũ lụt, động đất, sóng thần ... cho đến các rủi ro do chính con người gây ra như : sai lầm trong thiết kế, khuyết tật của nguyên vật liệu, hành động phá hoại vô ý hoặc có chủ đích của người khác ... đều có thể xảy ra và không thể lường trước được. Chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể dẫn đến những hậu quả to lớn. Vì vậy để đảm bảo an toàn trong quá trình xây dựng lắp đặt thì họ cần có bảo hiểm . Ngoài ra, khi tiến hành bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, các công ty bảo hiểm cùng với các ngành, các cơ quan hữu quan phối hợp tiến hành công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm ngăn chặn có hiệu quả các rủi ro có thể gây ra thiệt hại đối với tài sản, trách nhiệm và con người. Trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, theo thông lệ, trước khi tiến hành bảo hiểm, Người bảo hiểm phải theo dõi, kiểm tra và đánh giá mức độ rủi ro của các đối tượng được yêu cầu bảo hiểm, trên cơ sở đó sẽ tư vấn kịp thời cho người được bảo hiểm những biện pháp cần thiết để đề phòng, hạn chế khả năng xảy ra rủi ro và như vậy vô hình chung đã đem lại hiệu quả chung cho toàn xã hội. II. Những nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt 1. Người được bảo hiểm Mỗi công trình xây dựng là một quy hoạch tổng thể có liên quan đến rất nhiều khía cạnh như pháp luật, hợp đồng và kỹ thuật, cho nên việc hợp tác chặt chẽ giữa các bên là vấn đề cần thiết không thể thiếu được. Chính vì vậy việc xác định rõ người được bảo hiểm trong một công trình xây dựng là rất cần thiết. Trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, tất cả các bên có liên quan và có quyền lợi trong công trình xây dựng và lắp đặt, đã được nêu tên hay chỉ định trong bản phụ lục bảo hiểm đều có thể là người được bảo hiểm. Cụ thể như sau: 1.1. Người được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng: - Nhà đầu tư: Là người bỏ tiền vốn, đất đai ra để xây dựng công trình, là nhân vật trung tâm trong những người được bảo hiểm. Quyền lợi của họ gắn liền với chính bản thân công trình. - Nhà thầu chính: Là người được chủ đầu tư uỷ quyền chịu trách nhiệm toàn bộ việc xây dựng công trình thông qua một hợp đồng xây dựng được ký kết giữa các bên. - Tổ chức tư vấn đầu tư và xây dựng: Là các kiến trúc sư, kỹ sư, cố vấn chuyên môn, … Họ là người thay mặt chủ đầu tư trên công trường, theo dõi, kiểm tra giám sát việc thi công của từng hạng mục công trình trên cơ sở bản vẽ thiết kế. - Các Nhà thầu phụ: Là người ký kết hợp đồng làm thuê cho nhà thầu chính nhằm thực hiện một phần công việc hoặc công việc được hoàn thành trong thời gian ngắn. Do có nhiều bên được bảo hiểm nên sẽ nảy sinh vấn đề đơn bảo hiểm sẽ ghi ai là người được ghi tên đầu tiên. Thông thường người đứng ra ký kết hợp đồng bảo hiểm và đóng phí sẽ là người đại diện của các bên trong hợp đồng bảo hiểm. Họ có thể là chủ đầu tư, chủ thầu chính hay thầu phụ. Tuy nhiên, nếu do nhà thầu phụ đứng ra ký kết hợp đồng thì giá trị pháp lý sẽ không thể bằng chủ đầu tư hay chủ thầu chính. Vì vậy, trong hợp đồng bảo hiểm xây dựng sẽ ghi tên người đứng ra đại diện kèm theo danh sách những người có quyền lợi liên quan đến công trình.. 1.2. Người được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt: - Nhà đầu tư : Là người chịu trách nhiệm mua sắm máy móc thiết bị, lắp đặt và đưa vào sử dụng với chi phí của mình. - Nhà thầu chính : Là người làm thuê cho chủ đầu tư tiến hành công việc lắp đặt, vận hành thử, sửa chữa và bảo hành. - Nhà thầu phụ : Là người làm thuê từng phần việc cho nhà thầu chính. - Các kiến trúc sư, nhà thiết kế, kỹ sư tư vấn : Họ là những người hoạt động liên quan đến công trình lắp đặt. - Nhài cung cấp máy móc thiết bị cho toàn bộ công trình lắp đặt Ngoài ra, các tổ chức cho vay (như các ngân hàng) cũng là những người được bảo vệ một cách gián tiếp bởi hợp đồng này. Chú ý là khi có bất cứ một sai sót hay hành động cố ý nào của người được Bảo hiểm dẫn đến tổn thất đều không được Bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng và lắp đặt. 2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm 2.1. Đối tượng bảo hiểm 2.1.1. Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng Đối tượng chính của bảo hiểm xây dựng bao gồm tất cả công trình xây dựng dân dụng, công trình công nghiệp… hay nói cách khác là bao gồm tất cả các công trình xây dựng mà kết cấu của nó có sử dụng xi măng và bê tông cốt thép. Cụ thể là các nhóm công trình sau : - Nhà ở, trường học, bệnh viện, trụ sở làm việc, rạp hát, rạp chiếu phim, các công trình văn hoá khác … - Nhà máy, xí nghiệp, các công trình phục vụ sản xuất. - Đường sá (bao gồm cả đường bộ và đường sắt), đường băng sân bay. - Cầu cống, đê đập, công trình thoát nước, kênh đào, cảng … Mỗi công trình bao gồm nhiều hạng mục riêng biệt được xác định và dự tính thông qua sơ đồ tổng thể, bản vẽ thiết kế cùng các máy móc trang thiết bị cần thiết phục vụ cho công tác xây dựng. Để thuận tiện cho việc tính phí bảo hiểm cũng như giải quyết khiếu nại trong trường hợp tổn thất xảy ra, một công trình xây dựng có thể được chia làm nhiều hạng mục khác nhau, cụ thể gồm: * Cấu trúc chủ yếu của công trình xây dựng: Hạng mục này chiếm phần lớn giá trị của công trình. Nó bao gồm toàn bộ các công việc do nhà thầu chính tiến hành ( kể cả các nhà thầu phụ) theo hợp đồng xây dựng được ký kết giữa nhà thầu chính và chủ đầu tư: Từ công tác chuẩn bị mặt bằng (đào đất, san nền), xây dựng các cấu trúc tạm thời phục vụ công tác thi công (làm kênh dẫn nước, đê bảo vệ công trình …) cho đến công tác đóng cọc, làm móng và xây dựng cấu trúc chính của công trình. Ngoài ra khi xây dựng một công trình, còn có cả công tác lắp đặt máy móc thiết bị như hệ thống thang máy, điều hoà điện nước, thiết bị bảo vệ công trình đó. Nếu người được bảo hiểm có yêu cầu thì người bảo hiểm sẽ xem xét và bảo hiểm cho công tác chạy thử các máy móc thiết bị được lắp đặt mà đáng lẽ phải thuộc phạm vi đơn bảo hiểm lắp đặt. Tuy nhiên nếu giá trị lắp đặt các máy móc, thiết bị đó lớn hơn 50% tổng giá trị của cả công trình xây dựng thì không được bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm xây dựng mà phải áp dụng đơn bảo hiểm lắp đặt. * Các trang thiết bị xây dựng: Gồm các thiết bị cố định phục vụ thi công như các công trình phụ trợ (lán trại, trụ sở tạm thời, kho bãi, nhà xưởng), giàn giáo, hệ thống băng tải, thiết bị cung cấp điện nước, rào chắn …Khi yêu cầu bảo hiểm cho các trang thiết bị này, cần phải có danh sách kèm theo đơn bảo hiểm * Máy móc xây dựng : Bao gồm các loại máy móc dùng trong quá trình xây dựng như máy móc có động cơ tự hành hoặc không tự hành phục vụ công tác thi công ( như máy xúc, máy ủi, xe chuyên dùng, …) thuộc quyền sở hữu của người được bảo hiểm hoặc do họ đi thê. Các loại máy móc này chỉ được Bảo hiểm trong thời gian sử dụng trên công trường. Khi yêu cầu Bảo hiểm cho các máy móc này cần phải có danh sách kèm theo đơn Bảo hiểm. * Các tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường thuộc quyền sở hữu, quản lý, trông nom hay coi sóc của người được bảo hiểm: Trường hợp này thường có ở các công trình mở rộng hoặc cải tạo lại, các tài sản trên có thể bị thiệt hại trong quá trình xây dựng mới. Giá trị của tài sản này không nằm trong giá trị của công trình mới nên chúng thường không thuộc phạm vi bảo hiểm. Tuy nhiên nếu người được bảo hiểm có nhu cầu thì có thể xem xét và mở rộng phạm vi bảo hiểm theo điều khoản bổ sung. * Chi phí dọn dẹp hiện trường : Bao gồm các chi phí phát sinh do việc thu dọn và di chuyển mảnh vụn, đất đá do các rủi ro được bảo hiểm gây ra trên phạm vi công trường. Khoản chi phí này chỉ được nhà bảo hiểm thanh toán khi người được Bảo hiểm kê khai giá trị và yêu cầu bảo hiểm. Người bảo hiểm thường gợi ý cho người được bảo hiểm mua 5% giá trị công trình làm số tiền bảo hiểm cho phần chi phí này. * Trách nhiệm dân sự của người được Bảo hiểm đối với bên thứ ba : Bao gồm các trách nhiệm pháp lý do thiệt hại về tài sản và (hoặc) thương tật thân thể của bên thứ ba phát sinh trong quá trình thi công công trình hoặc xung quanh khu vực công trường. Mặc dù bảo hiểm xây dựng là loại hình bảo hiểm tài sản, nhưng để hấp dẫn khách hàng và nhằm giảm bớt thủ tục hành chính cho họ cũng như cho công ty Bảo hiểm nên đơn bảo hiểm xây dựng đã được mở rộng để bảo hiểm cho cả trách nhiệm đối với người thứ ba. Tuy nhiên, người thứ ba không phải là người thân, người làm công hoặc người đại diện của người được bảo hiểm. Đối với người làm công, họ được bảo hiểm bằng đơn bảo hiểm tai nạn lao động hoặc trách nhiệm của chủ thầu đối với người làm thuê. 2.1.2. Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt: Đối tượng bảo hiểm lắp đặt được hiểu là các máy móc lắp đặt, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt và một số công việc, hạng mục liên quan tới công việc lắp đặt. Đối tượng được bảo hiểm được phân loại như sau: - Các máy móc, dây chuyền đồng bộ trong một xí nghiệp hay trong khi tiến hành lắp đặt các máy móc, thiết bị đó; - Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp đặt; - Các phần việc xây dựng phục vụ cho công tác lắp đặt; - Trách nhiệm dân sự đối với bên thứ ba; - Chi phí dọn dẹp vệ sinh. 2.2. Phạm vi bảo hiểm 2.2.1. Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng  Các rủi ro bảo hiểm: Đơn bảo hiểm xây dựng do công ty bảo hiểm cấp thường là đơn bảo hiểm mọi rủi ro nên phạm vi được bảo hiểm thường rất rộng, chỉ trừ các rủi ro loại trừ được nêu rõ trong đơn (theo thông lệ quốc tế) còn hầu hết các rủi ro bất ngờ và không lường trước được đều được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm xây dựng. Cụ thể có thể chia thành những loại rủi ro như sau : - Cháy, sét đánh, nước chữa cháy hay phương tiện chữa cháy; - Lũ lụt, mưa, tuyết rơi, tuyết lở, sóng thần; - Bão tố các loại; - Động đất, sụt lở đất đá; - Trộm cắp; - Thiếu kinh nghiệm, sơ suất, bất cẩn, hành động ác ý hay lỗi của con người;. Ngoài ra, tùy vào từng công trình, mỗi đơn cấp còn có các điều khoản bổ sung thêm đối với các rủi ro phụ để phù hợp với nội dung công việc.Ví dụ: Điều khoản sửa đổi bổ sung số 001: Bảo hiểm cho các tổn thất gây ra bởi đình công, bạo loạn, xung đột nội bộ; Điều khoản sửa đổi bổ sung số 011: Tổn thất hàng loạt …  Các rủi ro loại trừ: Các rủi ro loại trừ chung cho cả phần bảo hiểm vật chất và trách nhiệm: - Chiến tranh hay những hoạt động tương tự, đình công, nổi loạn, ngừng công việc theo yêu cầu của bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào. - Hành động cố ý hay có sự cẩu thả cố ý của người được bảo hiểm hoặc người đại diện của họ. - Phản ứng hạt nhân, phóng xạ hay ô nhiễm phóng xạ. Rủi ro loại trừ áp dụng đối với phần bảo hiểm thiệt hại vật chất. - Các tổn thất có tính chất hậu quả như : Tiền phạt do chậm trễ hay vi phạm hợp đồng, mất thu nhập do thời gian xây dựng kéo dài … - Những hỏng hóc về cơ khí/ điện hay trục trặc của máy móc, trang thiết bị xây dựng - Tổn thất do thiết kế sai, nguyên vật liệu kém chất lượng hay không đúng chủng loại. - Chi phí thay thế, sửa chữa hay khắc phục các khuyết tật của nguyên vật liệu và (hoặc) do tay nghề (các tổn thất do hậu quả thì được bảo hiểm). Các loại trừ đối với phần bảo hiểm trách nhiệm : - Khiếu nại tổn thất liên quan đến tai nạn được bảo hiểm hay có thể được bảo hiểm trong phạm vi của phần bảo hiểm vật chất của đơn bảo hiểm xây dựng. - Khiếu nại phát sinh do dịch chuyển, rung động hay suy yếu của cột chống. 2.2.2. Phạm vi bảo hiểm của bảo hiểm lắp đặt:  Rủi ro được bảo hiểm Những rủi ro chính được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm lắp đặt được chia làm 3 loại chính. Đó là: - Các rủi ro thiên tai bao gồm động đất, động biển gây ra sóng thần, gió mạnh ( do bão, gió xoáy, cuồng phong), mưa lớn, lũ, lụt, đóng băng, sét đánh, cháy do sét đánh núi lửa, đất đá lún, sụt lở. - Các hiểm hoạ tổn thất gây ra bởi hoạt động của con người trên công trường như: thiếu kinh nghiệm, lỗi của con người, bất cẩn, trộm cắp, hành động ác ý, vận chuyển, khuân vác nguyên vật liệu, lỗi thiết kế, cường độ công việc cao do thời gian xây dựng lắp đặt quá ngắn, phối hợp công việc thiếu hợp lý, bảo vệ công trường không tốt, thiếu biện pháp ngăn ngừa tổn thất, lỗi vận hành, lỗi người vận hành máy. - Các rủi ro kỹ thuật, vận hành bao gồm áp suất ép quá lớn, chân không, nhiệt độ quá lớn, lực li tâm, lỗi nguyên vật liệu, mất kiểm soát phản ứng hoá học, lỗi của hệ thống hay thiết bị điều hành, điều khiển.  Các rủi ro loại trừ Trong đơn bảo hiểm lắp đặt các rủi ro loại trừ được chia làm 3 loại rủi ro chính: - Loại trừ chung: Áp dụng cho cả phần bảo hiểm thiệt hại vật chất và trách nhiệm. Các rủi ro loại trừ ở phần này là: + Chiến tranh + Những rủi ro hạt nhân + Các hành vi vi phạm của người được bảo hiểm + Gián đoạn công việc - Các loại trừ đặc biệt áp dụng cho phần thiệt hại vật chất: + Các khoản miễn thường + Mọi tổn thất hậu quả + Lỗi thiết kế, khuyết tật nguyên vật liệu + Hao mòn và xé rách + Các tổn thất về hồ sơ, bản vẽ, tài liệu,… + Các tổn thất được phát hiện vào thời điểm kiểm kê (mất cắp, mất tích) - Các loại trừ áp dụng đối với phần thiệt hại về trách nhiệm + Các khoản miễn thường. + Những chi tiêu hay chi phí sửa chữa có liên quan đến sửa chữa những thiệt hại được bảo hiểm trong phần bảo hiểm vật chất. + Trách nhiệm đối với thương tật của con người tham gia vào quá trình thi công công việc + Tổn thất và thiệt hại đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hay chăm sóc, quản lý của bất cứ người được bảo hiểm nào. + Tổn thất gây ra bởi xe cơ giới, tàu (biển, sông), máy bay. + Bất cứ khoản bồi thường nào vượt quá phạm vi bảo vệ qui định trong hợp đồng bảo hiểm. 3. Thời hạn bảo hiểm: Thời hạn bảo hiểm được ghi rõ trong đơn bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm thường là thời gian thi công được tính từ khi bắt đầu khởi công công trình( sau khi bốc dỡ vật tư, máy móc,…xuống công trường) đến khi hoàn thiện hay chuyển giao hoặc đưa vào hoạt động. Trên thực tế, thời gian thi công không nhất thiết phải trùng với thời hạn ghi trong hợp đồng. Nếu công trình hoàn thành trước thời hạn thì hiệu lực của hợp đồng cũng chấm dứt ngay sau khi công trình được bàn giao đưa vào sử dụng. trong trường hợp thời gian thi công kéo dài vượt quá thời hạn quy định thì người được bảo hiểm phải có yêu cầu gia hạn thêm đối với hợp đồng bảo hiểm đồng thời phải thanh toán thêm phí bảo hiểm cho trường hợp vượt quá này. Thông thường thì thời hạn bảo hiểm của bảo hiểm xây dựng và lắp đặt bao gồm - Lưu kho trước khi xây dựng hay lắp đặt (thời gian lưu kho không được vượt quá ba tháng). - Giai đoạn xây dựng, lắp đặt - Kiếm nghiệm, chạy thử. Đối với các máy móc, thiết bị cũ (đã sử dụng rồi) thì trách nhiệm của người bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt sẽ chấm dứt ngay sau khi lắp đặt xong - không bảo hiểm cho quá trình chạy thử của các máy móc này. - Giai đoạn bảo hành. Nếu người được bảo hiểm yêu cầu thì thời hạn bảo hiểm có thể mở rộng thời gian bảo hành cho công trình, khi đó sẽ áp dụng điều khoản sửa đổi bổ sung 004 (Bảo hiểm bảo hành mở rộng). 4. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm 4.1. Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng Xác định được giá trị bảo hiểm (GTBH) trong bảo hiểm xây dựng là vấn đề quan trọng và rất phức tạp, nó bao gồm các phần giá trị sau : * GTBH của phần công tác xây dựng : Thường là giá trị ước tính và có thể là một trong những giá trị sau : - Tổng giá trị khôi phục lại công trình trong trường hợp có tổn thất toàn bộ và phải tiến hành xây dựng lại. - Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng. - Giá trị tổn thất nhỏ nhất hoặc lớn nhất trong trường hợp sự cố xảy ra. Tuy nhiên, việc xác định cụ thể giá trị của phần công tác xây dựng theo giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng là hợp lý nhất. Khi công trình hoàn thành, giá trị này được điều chỉnh lại theo giá trị thực tế và phí bảo hiểm cũng được điều chỉnh lại cho phù hợp. Giá trị dự toán công trình theo hợp đồng xây dựng thường bao gồm chi phí lập công trình, giá trị các nguyên vật liệu do nhà thầu cung cấp, chi phí nhân công của chủ thầu, những chi phí trả cho khối lượng công việc thầu phụ hay dịch vụ, chi phí liên quan đến việc sử dụng máy móc thi công xây dựng, nhà xưởng thiết bị và các công trình tạm thời, kỹ thuật và giám sát, chi phí hành chính, lợi nhuận. * GTBH của máy móc và trang thiết bị xây dựng: được xác định theo giá trị thay thể tương đương của máy móc, thiết bị đó mua tại thời điểm thi công công trình và bao gồm cả các chi phí vận chuyển, lắp ráp. Trong trường hợp xảy ra tổn thất bộ phận của máy móc thiết bị người được bảo hiểm sẽ nhận được số tiền sửa chữa hoặc thay thế các bộ phận thiệt hại mà không được khấu trừ đi khoản khấu hao của các bộ phận đó. * GTBH của phần chi phí dọn dẹp: Giá trị này do người được bảo hiểm căn cứ vào việc dự kiến nếu xảy ra tổn thất thì chi phí cần thiết ước tính để có thể tiến hành dọn dẹp mảnh vỡ, đất đá … là bao nhiêu. Thông thường các công ty Bảo hiểm xác định giá trị này bằng 5% - 10% giá trị hợp đồng xây dựng. * GTBH cho các công trình hoặc tài sản có sẵn trong hoặc xunh quanh khu vực thi công thuộc quyền sở hữu, trông nom hoặc coi sóc của người được bảo hiểm : Được xác định theo giá trị thực tế của các tài sản đó tại thời điểm yêu cầu bảo hiểm trong hợp đồng. * Mức trách nhiệm bảo hiểm cho trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba do việc thi công công trình: Mức trách nhiệm này thường được xác định trên cơ sở giá trị tổn thất tối đa có thể. Đây là giới hạn thoả thuận cho mỗi tai nạn nhưng không giới hạn trong suốt thời gian bảo hiểm. Thông thường công ty bảo hiểm thường thuyết phục người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm ngang giá trị. Trong trường hợp người được bảo hiểm tham gia bảo hiểm dưới giá trị thì sẽ áp dụng phương pháp bảo hiểm theo tỉ lệ đối với các thiệt hại xảy ra. 4.2 Giá trị bảo hiểm trong bảo hiểm lắp đặt: Trong bảo hiểm lắp đặt, GTBH được tính cho từng hạng mục bảo hiểm. Cụ thể từng hạng mục như sau: - GTBH đối với thiết bị được lắp đặt: được tính bằng giá trị thay thế mới của bất kỳ máy móc, thiết bị mới tương đương, gồm giá mua, chi phí kỹ thuật, cước phí vận chuyển, thuế hải quan, chi phí lắp đặt, phí kho bãi. - GTBH đối của các máy móc, trang thiết bị phục vụ cho công tác lắp đặt; GTBH đối với chi phí dọn dẹp vệ sinh; GTBH của các tài sản có sẵn trên và xung quanh công trường lắp đặt thuộc quyền quản lý, sở hữu của người được bảo hiểm ( tương tự như bảo hiểm xây dựng). 4.3. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm (STBH) là khoản tiền ghi trong đơn bảo hiểm để xác định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm đối với công trình xây dựng - lắp đặt. STBH được xác định dựa trên cơ sở GTBH và sự thoả thuận của hai bên. Thông thường STBH trong bảo hiểm xây dựng và lắp đặt bằng GTBH Đối với phần Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với bên thứ ba thì STBH hoàn toàn dựa trên sự thoả thuận giữa hai bên. Nếu giá trị lắp đặt lớn hơn 50% tổng STBH thì công ty bảo hiểm cấp đơn bảo hiểm lắp đặt. Còn nếu giá trị xây dựng lớn hơn 50% tổng STBH thì cấp đơn bảo hiểm xây dựng. trên thực tế thì tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể sẽ có các sửa đổi bổ sung phù hợp với từng đơn cấp ra. 5. Phí bảo hiểm và trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm 5.1. Phí bảo hiểm 5.1.1. Đánh giá các yếu tố rủi ro trong xây dựng và lắp đặt Đây là một trong những công việc không thể thiếu của các công ty bảo hiểm trước khi cấp đơn bảo hiểm cho một công trình xây dựng, lắp đặt cũng như trong quá trình hợp đồng bảo hiểm còn hiệu lực. Việc đánh giá tốt các hiểm hoạ và nguy cơ có thể xảy ra đối với một công trình xây dựng, lắp đặt sẽ giúp cho người bảo hiểm cũng như người được bảo hiểm quản lý rủi ro tốt hơn cũng như lựa chọn các điều khoản Bảo hiểm phù hợp. Việc đánh giá này được dựa trên cơ sở xem xét một cách thận trọng và chính xác các nhân tố chủ quan, khách quan có thể ảnh hưởng đến một công trình. Các nhân tố này cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc tính toán xác định tỷ lệ phí bảo hiểm phù hợp với từng công trình xây dựng. * Các nhân tố chủ quan : Đó là các nhân tố có thể gây ra do sự vô ý hoặc cố ý của con người. Nó liên quan đến kinh nghiệm của chủ đầu tư, chủ thầu trong xây dựng. Tiến độ thi công công trình và thời gian thi công cũng là một nhân tố vô cùng quan trọng trong việc đánh giá các rủi ro. * Các nhân tố khách quan : Là các nhân tố nằm ngoài sự kiểm soát của con người, ví dụ như các hiểm hoạ tự nhiên, điều kiện địa chất thuỷ văn, cháy nổ, … Ngoài ra, còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến quá trình xây dựng một công trình như phương án thi công, các biện pháp an toàn, đồ án thiết kế, ảnh hưởng giữa công trình và các công trình lân cận,… 5.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm Cơ sở định phí bảo hiểm phải căn cứ vào một số nhân tố nhất định như : + Loại công trình xây dựng, lắp đặt + Khu vực xây dựng, lắp đặt theo địa hình, khí hậu, điều kiện sinh thái + Loại rủi ro, nhóm rủi ro (bao gồm các rủi ro cơ bản, các rủi ro bất ngờ, các rủi ro phụ) + Số tiền bảo hiểm + Mức độ đảm bảo của bảo hiểm (Mức miễn thường và điều kiện bồi thường được thoả thuận trên hợp đồng bảo hiểm). Ngoài ra, còn một số nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc tăng giảm phí như kinh nghiệm của nhà thầu, tiền sử các vụ khiếu nại trước khi tham gia Bảo hiểm của người được bảo hiểm, tay nghề của lao động, … 5.1.3. Phương pháp tính phí bảo hiểm  Phí bảo hiểm xây dựng: Thông thường phí bảo hiểm xây dựng được xác định theo một tỷ lệ phần trăm trên giá trị bảo hiểm. Nhưng trong thực tế không thể đặt ra một biểu phí với tỷ lệ cố định cho loại hình bảo hiểm này vì mỗi công trình riêng có các thông số kỹ thuật riêng, chịu ảnh hưởng của những trạng thái, điều kiện tự nhiên khác nhau tại từng khu vực … Nhưng nói chung, phí bảo hiểm xây dựng được xác định theo sự rủi ro thông thường là những rủi ro chung nhất mà bất kỳ một công trình xây dựng nào cũng có khả năng gặp phải, ngoài ra còn tính đến những rủi ro đặc biệt như : động đất, lũ lụt, sóng thần … Phí bảo hiểm của một công trình xây dựng bao gồm hai phần chính là: Phí bảo hiểm tiêu chuẩn: Phí bảo hiểm tiêu chuẩn là phí bảo hiểm tính cho các rủi ro tiêu chuẩn (các rủi ro tiêu chuẩn theo đơn bảo hiểm của công ty tái bảo hiểm Munich Re đang được áp dụng tại Việt Nam) bao gồm các rủi ro thiên tai, các rủi ro bất ngờ và các rủi ro khác như tay nghề kém, thiếu kinh nghiệm,… Phí bảo hiểm tiêu chuẩn gồm có phí cơ bản tối thiểu, phụ phí rủi ro động đất và phụ phí rủi ro lũ lụt. * Phí cơ bản tối thiểu: là mức phí tối thiểu cho một công trình xây dựng, được tính bằng tỷ lệ phần nghìn của số tiền bảo hiểm. * Phụ phí rủi ro động đất: được tính cho từng loại công trình, phụ thuộc vào độ nhạy cảm của công trình đối với rủi ro động đất. Trong kỹ thuật mức độ nhạy cảm của công trình được chia làm năm loại C,D,E,F và G ( trong đó công trình loại C là có độ nhạy cảm với rủi ro động đất thấp nhất, loại G có độ nhạy cảm với rủi ro động đất cao nhất). Tỉ lệ phí động đất được tính bằng phần nghìn/ năm. Nếu công trình xây dựng có thời gian xây dựng trên hoặc dưới một năm được tính phí như sau: Thời hạn bảo hiểm (tháng) 12 tháng Phí cho Phụ phí động đất = một năm x ( trong thời gian xây dựng ) Đối với khu vực xây dựng công trình: theo bản đồ phân chia khu vực động đất của công ty tái bảo hiểm Munich Re, các nước trên thế giới được chia thành 5 khu vực, được đánh số từ 0 đến 4 theo mức độ tăng dần của động đất tính theo heo độ Mercalli sửa đổi. Theo bản đồ đó thì các tỉnh thuộc miền Trung và miền Nam của Việt Nam thuộc khu vực có rủi ro động đất là 0 (hầu như không xảy ra động đất), còn miền Bắc thuộc khu vực 1 ( ít xảy ra động đất ). Bảng 1: Biểu phụ phí rủi ro động đất áp dụng cho Việt Nam Độ nhạy cảm của công C D E F G trình Khu vực 0 0 0 0 0 0 Phụ phí Khu vực 1 0.20 0.22 0.24 0.26 0.30 (Nguồn: PVI Đông Đô)  Phụ phí rủi ro lũ lụt: được tính cho một năm căn cứ vào tính chất của từng loại công trình chịu tác động của rủi ro lũ lụt. Tỉ lệ phí xác định bằng phần nghìn trên số tiền bảo hiểm và tùy thuộc vào thời gian thi công ( mùa mưa hay mùa khô). Việc xác định phụ phí cho rủi ro lũ lụt được dựa vào những yếu tố sau: - Sức chịu đựng của công trình đối với tác động của lũ lụt (được chia ra làm 3 loại sức chịu đựng : I, II, III). Mỗi công trình đều ứng với một cấp chịu đựng nhất định được ghi trong biểu phí. - Khu vực rủi ro nơi tiến hành công trình xây dựng: Có 3 khu vực rủi ro là 1, 2 và 3: Khu vực 1 : ít chịu ảnh hưởng của bao, lũ lụt : Khoảng cách tới sông, hồ, biển hay nhánh sông ít nhất từ 1km trở lên, độ cao trung bình so với nước biển ít nhất là 25m. Khu vực 2 : Vùng chịu ảnh hưởng của bão, lũ lụt : Khoảng cách tới sông, hồ, biển hay nhánh sông dưới 1km, độ cao trung bình dưới 10m so với mặt nước biển, lượng mưa cao nhất ghi nhận được là 40 –100mm/ngày. Khu vực 3 : Khu vực chịu ảnh hưởng rất nhiều của bão, mưa, lũ : Khoảng cách tới sông, biển, hồ hay nhánh sông dưới 300m và độ cao trung bình so với mặt nước biển dưới 3m, lượng mưa trên 100mm/ngày. Bảng 2:Biểu phụ phí rủi ro bão, lũ lụt Sức chịu đựng Phụ phí rủi ro bão Phụ phí rủi ro lũ lụt của công trình Khu vực 1 Khu vực 2 Khu vực 3 Khu vực 1 Khu vực 2 Khu vực 3 I 0,05 0,10 0,15 0,05 0,15 0,25 II 0,10 0,15 0,20 0,20 0,20 0,30 III 0,15 0,20 0,25 0,25 0,30 0,40 (Nguồn: PVI Đông Đô) Phụ phí mở rộng: Đây là phần phí bảo hiểm xác định cho phần trang thiết bị xây dựng, máy móc xây dựng, tài sản có sẵn trên và xung quanh khu vực công trường, chi phí dọn dẹp hiện trường, trách nhiệm pháp lý đối với bên thứ ba.  Phí bảo hiểm lắp đặt Trong công trình lắp đặt có thể có một phần công việc xây dựng và phần công việc này có thể bảo hiểm luôn bằng đơn bảo hiểm lắp đặt. Khi đó cần lưu ý cách tính phí như sau: - Nếu giá trị của phần xây dựng nhỏ hơn 20% tổng giá trị của công trình thì mức phí tính như tỷ lệ phí của bảo hiểm lắp đặt. - Nếu giá trị của phần công việc xây dựng từ 20 - 50% giá trị của công trình thì phí bảo hiểm cho phần công việc này được tính riêng theo biểu phí trong bảo hiểm xây dựng. - Nếu giá trị công việc xây dựng lớn hơn 50% giá trị công trình thì áp dụng đơn bảo hiểm xây dựng để bảo hiểm cho công việc này. Về cơ bản, phương pháp tính phí bảo hiểm lắp đặt cũng giống như phương pháp tính phí bảo hiểm xây dựng, chỉ có một số điểm khác đó là: - Phí cơ bản tối thiểu trong bảo hiểm lắp đặt tối thiểu là 300USD hoặc tương đương bằng các loại tiền khác - Việc xác định phụ phí rủi ro lũ lụt phụ thuộc vào sức chịu của công trình đối với tác động của gió, bão, lũ lụt. 5.2. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm Thông tư số 76/2003/TT -BTC đã quy định “Khi xảy ra sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường cho bên mua bảo hiểm theo đúng các điều kiện và điều khoản của hợp đồng bảo hiểm” . Khi xảy ra sự cố thuộc trách nhiệm bảo hiểm, trước khi giải quyết bồi thường người bảo hiểm phải tiến hành giám định tổn thất một cách cẩn thận. 5.2.1. Nguyên tắc chung trong công tác giám định và bồi thường tổn thất Công tác giám định và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm kỹ thuật phải tuân thủ theo một số nguyên tắc nhất định để đảm bảo quyền lợi cho công ty bảo hiểm cũng như người được bảo hiểm. Cụ thể như sau: - Việc giám định và giải quyết bồi thường phải đảm bảo kịp thời, chính xác, khách quan và thỏa đáng. Ngoài ra, do tính chất phức tạp và đặc thù của các đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm kỹ thuật, các nhà bảo hiểm có thể trực tiếp hoặc thuê giám định viên chuyên nghiệp thực hiện công tác giám định. - Nhà bảo hiểm phải giải quyết bồi thường trong vòng 15 ngày sau khi hoàn tất hồ sơ khiếu nại. - Người được bảo hiểm mua bảo hiểm theo đơn giá nào thì bồi thường theo đơn giá đó, việc sửa đổi, điều chỉnh chỉ có hiệu lực trước khi xảy ra tổn thất. 5.2.2. Các bước cơ bản trong giám định và bồi thường tổn thất  Nhận thông báo tổn thất và yêu cầu giám định Khi tổn thất xảy ra, người được bảo hiểm có trách nhiệm báo ngay cho người bảo hiểm, đồng thời giữ nguyên hiện trường và thực hiện các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất phát sinh thêm. Sau một khoảng thời gian nhất định phải hoàn thành các giấy tờ sau và gửi cho người bảo hiểm: - Thông báo chi tiết bằng văn bản về tổn thất; - Giấy yêu cầu giám định; - Giấy chứng nhận bảo hiểm; - Hoá đơn thanh toán phí bảo hiểm; - Xác nhận của các nhân chứng về tai nạn hoặc sự cố; - Các giấy tờ khác ( nếu có ).  Tiến hành giám định: Công tác này đòi hỏi người giám định viên phải giải quyết những công việc sau: - Xem xét và chụp ảnh hiện trường - Thu thập toàn bộ các số liệu, hóa đơn, chứng từ có liên quan đến tổn thất - Lập biên bản giám định hiện trường - Thẩm tra lại các bên có liên quan về tai nạn hoặc sự cố và các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất phát sinh thêm.  Giải quyết khiếu nại và bồi thường: Nguyên tắc chung của quy trình thông báo và giải quyết khiếu nại của tất cả các sự cố phát sinh như sau: - Tất cả các sự cố - Thông báo phải bằng fax hoặc email trong vòng 24 giờ kể từ khi phát sinh. - Sự cố lớn hoặc nghiêm trọng phải ngay lập tức thông báo bằng điện thoại sau đó thông báo bằng văn bản trong vòng 7 ngày kể từ ngày xảy ra sự cố. - Tất cả các sự cố - đề nghị fax mẫu Thông báo tổn thất đính kèm tại phụ lục trong vòng 7 ngày kể từ khi xảy ra sự cố. Một bộ hồ sơ khiếu nại yêu cầu bồi thường bao gồm: + Giấy chứng nhận bảo hiểm + Các hoá đơn đóng phí bảo hiểm + Biên bản giám định hiện trường + Báo cáo của công an (nếu cần). + Lời khai của nạn nhân, nhân chứng. Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm căn cứ vào thời hạn hiệu lực bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm. Trách nhiệm của công ty bảo hiểm chỉ phát sinh đối với đối tượng được bảo hiểm và khi người được bảo hiểm khiếu nại yêu cầu bồi thường trong thời gian quy định. Giới hạn trách nhiệm Bảo hiểm cao nhất mà người bảo hiểm phải gánh chịu: + Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm; + Mức giới hạn trách nhiệm đối với bên thứ ba; + Giới hạn trách nhiệm đối với các tổn thất do các rủi ro bổ sung (Giới hạn trách nhiệm cao nhất trong các trường hợp tổn thất do các rủi ro thiên tai). Trong trường hợp xảy ra tổn thất mà chưa rõ nguyên nhân, công ty bảo hiểm cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan công an làm sáng tỏ nguyên nhân và trách nhiệm của người được bảo hiểm, tránh để xảy ra trục lợi bảo hiểm. Sau khi đã xem xét, đánh giá và thực hiện đầy đủ các công việc trên đồng thời nhận đầy đủ giấy tờ cần thiết từ người được bảo hiểm, công ty bảo hiểm tiến hành bồi thường cho người được bảo hiểm và phải thông báo bằng văn bản kể cả trong trường hợp từ chối bồi thường kèm theo băn bản ghi rõ nguyên nhân từ chối. Trình tự giải quyết một vụ bồi thường có thể được minh họa qua sơ đồ sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ thông báo và giải quyết sự cố: Khách hàng Công ty bảo hiểm - Thông báo tổn thất bằng công - Hướng dẫn khách hàng hoàn thiện văn hoặc mẫu thông báo tổn thông báo tổn thất và fax cho công thất. ty bảo hiểm. - Phối hợp, tạo điều kiện cho - Kiểm tra, đánh giá sơ bộ tổn thất. Giám định viên thực hiện công - Thực hiện giám định tổn thất (nếu tác giám định. cần). - Cung cấp các thông tin cần - Họp định kỳ với khách hàng và thiết nếu được yêu cầu. các bên có liên quan trong quá - Hoàn thiện hồ sơ bồi thường trình giám định, giải quyết khiếu theo hướng dẫn của công ty nại nếu tổn thất lớn và phức tạp. bảo hiểm. - Thông báo kết quả giám định, kết quả trao đổi thống nhất giữa các bên. - Hoàn thiện hồ sơ bồi thường. - Thông báo cho khách hàng về số tiền bồi thường. - Thanh toán bồi thường.

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net