Luận chứng vai trò của tri thức khoa học tự nhiên đối với xã hội

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Luận chứng vai trò của tri thức khoa học tự nhiên đối với xã hội

Bài tập môn “Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin”. Chủ đề:Luận chứng vai trò của tri thức khoa học tù nhiªn ®èi víi x· héi Họ và tên : Nguyễn Thu Huyền Mã sinh viên : CQ501163 Lớp : Ngân HàngB-Khoa:Ngân hàng- tài chính Khóa học : K50 Học tại giảng đường : Nhà văn hóa tiết 4,5,6 thứ 4 Từ những năm 50 thế kỷ XX cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật đang làm biến đổi nhanh chóng bộ mặt của thế giới. Những cuộc cách mạng đó không thể diễn ra được nếu không có khoa học. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật sẽkhông thể xuất hiện được nếu không có khoa học tự nhiên và chắc chắn sẽ không tiến triển thuận lợi không mang lại những kết quả hoàn toàn tích cực nếu thiếu khoa học xã hội. Ngược lại, những cuộc cách mạng xã hội theo hướng XHCN, tức là những cuộc cách mạng lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và các chế độ bóc lột khác để xây dựng CHXH và chủ nghĩa cộng sản, sẽ không thể diễn ra được nếu thiếu khoa học xã hội Mác - Lênin và sẽ không thể đưa đến chủ nghĩa cộng sản nếu thiếu khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Vì vậy sự đóng góp của khoa học hiện đại đối với nền văn minh đương đại là không thể chối cãi và thể hiện rất đa dạng trên nhiều khía cạnh.Bài tiểu luận này xin đưa ra một số vai trò quan trọng nhất của khoa học tự nhiên đối với xã hội.Cụ thể như:vai trò của toán học và vật lý trong nhận thức luận, vai trò của cơ học lượng tử trong nền kinh tế và vai trò của di truyền học trong bài toán nguồn gốc loài người. Trước hết ta sẽ tìm hiểu tóm tắt về khoa học là gì và lịch sử phát triển của khoa học. 1.Khoa học là gì? Theo nghĩa rộng, khoa học (xuất phát từ tiếng Latin scientia, có nghĩa là tri thức hay hiểu biết) là bất cứ một hệ thống tri thức hay 1 thực hành có tổ chức nào. Theo nghĩa hẹp nhưng thông dụng hơn, khoa học là hệ thống tri thức thực nghiệm, lý thuyết và thực hành về thế giới tự nhiên và xã hội, thu được từ những nghiên cứu mang tính toàn cầu nhờ các phương pháp khoa học. Các phương pháp này dựa trên sự quan sát, thực nghiệm và giải thích các hiện tượng có thực của thế giới. Khoa học thường được chia thành hai nhóm: • Khoa học tự nhiên: chuyên nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên. • Khoa học xã hội: chuyên nghiên cứu hành vi và các xã hội con người. Đó đều là các khoa học thực nghiệm, theo nghĩa tri thức phải dựa trên các hiện tượng quan sát được và giới nghiên cứu có thể tổ chức thực nghiệm kiểm chứng chúng trong những điều kiện tương tự. Toán học, đôi khi được xem thuộc nhóm thứ ba - các khoa học hình thức, có cả sự tương đồng và khác biệt với các khoa học tự nhiên và xã hội. Nó tương đồng với khoa học thực nghiệm vì nó nghiên cứu khách quan, cẩn trọng và có hệ thống một lĩnh vực tri thức; và nó khác biệt vì cách xử lý tri thức: nó không dựa trên thực nghiệm, mà trên các giả thiết tiên nghiệm (tiên đề). Khoa học hình thức, bao gồm cả thống kê học và logic học, có vai trò quan trọng với các khoa học thực nghiệm, nhất là trong việc hình thành giả thuyết, lý thuyết và định luật, cả trong việc khám phá và diễn giải các sự biến tự nhiên (khoa học tự nhiên) và cách thức suy nghĩ và hành xử của con người và xã hội (khoa học xã hội). Bài tiểu luận này trình bày chủ yếu về khoa học tự nhiên. 2.Lịch sử của khoa học: 2 Khoa học là lĩnh vực năng động nhất trong các hiện tượng của xã hội, nó không ngừng vận động và phát triển với tốc độ ngày càng nhanh, và ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc. Quá trình phát triển của tri thức khoa học có thể chia thành ba giai đoạn chủ yếu: tri thức khoa học thời cổ đại, tri thức khoa học giai đoạn từ thời Phục Hưng cho đến hết thế kỷ XIX và tri thức khoa học hiện đại từ đầu thế kỷ XX đến nay. -Tri thức khoa học thời cổ đại: Giai đoạn hình thành tri thức khoa học của loài người được thực hiện trong các nền văn minh cổ đại ở Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, Babilon, điển hình là ở Hy Lạp, La Mã cổ đại, trong vài thiên niên kỷ trước công nguyên đến những thế kỷ đầu của công nguyên. Những đặc điểm chủ yếu của tri thức khoa học thời cổ đại được Ph.Ăngghen nhận xét: "Trước nhất chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua lại trong đó không có cái gì là đứng nguyên, không thay đồi mà tất cả đều vận động, biến đổi, phát sinh và mất đi”. -Tri thức khoa học cổ điển: Giai đoạn lớn thứ hai của quá trình phát triển khoa học được biểu hiện rõ trong thời kỳ từ thế kỷ XV đến hết thế kỷ XIX ở Tây Âu. Giai đoạn lớn này bao gồm ba thời kỳ là: thời kỳ Phục Hưng với sự hình thành một số ngành khoa học độc lập, tách khỏi cái khối chung triết học tự nhiên trước kia, thời kỳ thế kỷ XVII-XVIII, "đạt tới một mức độ hoàn chỉnh nhất định” của một số ngành khoa học 3 quan trọng (như cơ học của Niutơn), cùng với sự hình thành của một loạt ngành khoa học mới, thời kỳ thế kỷ XIX, còn gọi là thời kỳ cận đại. -Tư duy khoa học hiện đại: Một số ngành khoa học phi cổ điển đầu tiên đã ra đời từ cuối thế kỷ XIX, song khoa học hiện đại chỉ thực sự ra đời khi xuất hiện cuộc cách mạng vĩ đại trong khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX, mở đầu là thuyết lượng tử của Plank (1900) đến thuyết tương đối của Anhxtanh (1879-1955) và đặc biệt là cơ học lượng tử được xây dựng bởi Bohn, Heisenberg và nhiều người khác, trong những năm 20. Các lý thuyết khoa học vĩ đại này đã làm thay đồi căn bản lối suy nghĩ về tự nhiên, hình thành nên một phong cách tư duy khoa học mới, khác hẳn phong cách tư duy khoa học cổ điển, và thường được gọi là phong cách tư duy khoa học phi cổ điển. Phong cách này ngày càng được định hình rõ nét và ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các ngành khoa học. Ngày nay, nó được gọi là phong cách tư duy khoa học hiện đại. 3.Vai trò của khoa học đối với sự phát triển : Có thể nói khoa học, và những phát triển công nghệ kèm theo, có vai trò then chốt trong nền văn minh đương đại, được mệnh danh là văn minh tri thức. Để chứng minh cho nhận định đó, xin đưa ra ba minh họa điển hình. Đó là đóng góp của thuyết lượng tử trong nền kinh tế hiện đại; vai trò của toán học và vật lý học đối với sự phát triển nhất là với nhận thức luận; và ý nghĩa quyết định của di truyền học trong nhân học phân tử. 4 3.1. Đóng góp của cơ học lượng tử trong kinh tế: Trong tư cách một lý thuyết về thế giới vi mô (thế giới nguyên tử và hạ nguyên tử), cơ học lượng tử, với những quan niệm khó hình dung như tính bất định, nguyên lý chồng chất hay hiệu ứng chui ngầm…, thường được xem như một lãnh địa khó hiểu dành riêng cho giới chuyên môn và khó ứng dụng thực tiễn. Tuy nhiên các công nghệ dựa trên lý thuyết như công nghệ bán dẫn, công nghệ nano (công nghệ có độ chính xác đạt tới một phần tỉ mét)… đã làm thay đổi quan niệm đó. Hiện nay, các công nghệ này đóng góp một phần ba giá trị GDP của Mỹ, được xem là quốc gia có nền kinh tế hiện đại nhất hành tinh (năm 2007 đạt khoảng 14.000 tỉ USD). Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử, một chuyên ngành khoa học lại có vai trò to lớn như thế trong các hoạt động kinh tế - xã hội của nhân loại, dù xét theo tỉ lệ hay theo tổng giá trị đóng góp. 3.2. Tác động của khoa học đối với nhận thức luận: Một trong những thành tựu nổi bật nhất của khoa học thế kỉ XX là lần đầu tiên trong lịch sử phát triển, khoa học đưa ra được các giới hạn của chính mình. Đó là định lý Godel; nguyên lý bất định Heisenberg; lý thuyết hỗn độn và tính phức tạp. Định lý không đầy đủ Godel (1931): Định lý về tính không đầy đủ, được nhà toán học và logic học người Áo Godel đưa ra năm 1931, ban đầu được ứng dụng cho số học. Dần dần nó được mở rộng cho các chuyên ngành toán học khác, cho logic học và cuối cùng cho nhận thức luận. Ở dạng đơn giản nhất, nó phát biểu rằng, trong một hệ hình thức dựa trên các tiên đề (các giả định tiên nghiệm), như toán học hiện hành, luôn tồn 5 tại những bài toán mà ta không thể biết đúng hay sai nếu chỉ dựa trên các tiên đề đã cho. Muốn hiểu hệ thống đó, cần một hệ thống với hệ tiên đề bao quát hơn; đến lượt mình hệ thống đó lại cần một hệ thống bao quát hơn nữa. Và quá trình cứ lặp lại mãi như thế. Định lý Godel đặt ra những giới hạn nguyên lý đối với toán học và là cú sốc đối với cộng đồng khoa học, vì nó vất bỏ niềm tin tưởng rằng, toán học là một hệ thống chặt chẽ và đầy đủ chỉ dựa trên logic. Nói cách khác, không chỉ trong nghệ thuật, mà ngay cả trong toán học, trực giác cũng có vai trò không thể thay thế. Định lý không đầy đủ cũng chỉ ra rằng, bộ não không thể tự hiểu bản thân, vì não là cấu trúc vật chất phát triển nhất tự nhiên, nên không thể có một cấu trúc bao quát và phát triển hơn nó được. Nguyên lý bất định Heisenberg (1927): Là một trong những nhà khoa học xây dựng thuyết lượng tử, Heisenberg đưa ra nguyên lý bất định năm 1927. Theo đó, không thể đo đạc chính xác đồng thời hai đại lượng vật lý liên hợp đặc trưng cho các hạt cơ bản, như vị trí và tốc độ, năng lượng và thời gian… Vì thế nếu trong thế giới vĩ mô hàng ngày, có thể xác định hành trạng (quĩ đạo) của một vật thể vĩ mô (như hòn đá hay chiếc ô tô) khá dễ dàng, thì trong thế giới vi mô, không thể làm được điều tương tự cho một hạt cơ bản, vì đo chính xác đồng thời hai đại lượng vật lý là một việc bị cấm về mặt nguyên lý. Nguyên lý bất định đặt ra giới hạn không thể vượt qua đối với việc nhận thức thế giới nhờ quan sát, tức thực chứng luận, một trong hai nền tảng lý luận quan trọng nhất của khoa học hiện đại. Lý thuyết hỗn độn và tính phức tạp: Gần 40 năm nay, xuất hiện một lĩnh vực học thuật mới nằm giữa toán học và vật lý. Đó lá lý thuyết hỗn độn, cho rằng các hệ thống tất 6 định, như hệ phương trình Newton, cũng có thể cho kết quả không tất định. Đó là hiệu ứng cánh bướm lừng danh (một cánh bướm đập tại Paris có thể gây bão tại Washington, do sự hỗn độn khuếch đại tác dụng nhỏ yếu ban đầu). Đó là lí do không thể dự báo thời tiết chính xác, dù ta đã biết mọi qui luật cơ học chất lưu. Một lí do của hành vi phi tất định nói trên là tính phức tạp. Các các hệ thống thực trong tự nhiên phức tạp đến mức, số khả thể của chúng có thể vượt xa khả năng tính toán hay suy luận của một hệ logic bất kì 3.3.Vai trò của di truyền học trong nhân học phân tử: Khoảng 20 năm nay, di truyền học giúp xây dựng ngành nhân học phân tử, một phân ngành dùng các phân tích phân tử để khám phá nguồn gốc và tiến hóa của người, cũng như để phân loại và nghiên cứu tiến hóa của các động vật nhân hình. Nhân học phân tử bắt nguồn từ phân tích protein, nay tập trung phân tích ADN. Cụ thể hơn, với việc phân tích sự thay đổi trong các cấu trúc đặc trưng của ADN, người ta có thể tìm thấy sự liên hệ di truyền giữa các cá thể hay các quần thể người, qua đó tìm được các bước tiến hóa theo thời gian và theo địa lý. Những năm 1980, khoa học tập trung tìm hiểu các ADN trong ti thể, nhà máy tạo năng lượng của tế bào. Các ADN này được di truyền theo đường mẹ con. Và năm 1987, Cann, Stoneking và Wilson đưa ra một phát hiện chấn động dư luận trên tạp chí Nature: Toàn bộ nhân loại trên trái đất hiện nay là hậu duệ của người phụ nữ 7 duy nhất sống tại Đông Phi khoảng 200.000 năm trước. Đó là nàng Eve ti thể, theo cách tôn vinh của giới truyền thông. Cuối thế kỉ trước, các ADN nhiễm sắc thể Y bắt đầu được quan tâm. Đó là nhiễm sắc thể quyết định giới tính nam, do cha truyền cho con trai. Nghiên cứu của Spencer Wells, nhà di truyền và nhân học sinh năm 1969, đang lãnh đạo Đề án bản đồ gien của Hội địa lý quốc gia Mỹ, hãng IBM và Quĩ gia đình Waitt, cho thấy, toàn thể nam giới trên hành tinh hiện nay là con cháu của người đàn ông duy nhất sống tại Đông Phi 60.000 năm trước, khoảng 10.000 năm trước cuộc di cư cuối cùng của người tinh khôn (Homo sapiens sapiens). Đó là chàng Adam nhiễm sắc thể Y, đối tác của nàng Eve ti thể sống từ hàng trăm ngàn năm trước. Đó là sự thắng thế của thuyết Rời khỏi châu Phi (hay Thuyết nguồn gốc duy nhất mới; Thuyết thay thế; Thuyết nguồn gốc châu Phi mới) về nguồn gốc loài người, xem người hiện đại tiến hóa tại Đông Phi khoảng 160.000-200.000 năm trước. Và 50.000 trước, một nhóm nhỏ người tinh khôn (từ vài trăm tới vài ngàn) đã vượt biển Đỏ sang Trung Đông, khởi nguồn cho cuộc hành trình vĩ đại chiếm lĩnh hành tinh. Cuộc hành trình đó có thể vẽ lại với sai số chỉ 2-3 ngàn năm, nhờ các kĩ thuật phân tích của ngành nhân học phân tử. Cũng nhờ di truyền học, các nhà nhân học tại Viện nhân học tiến hóa Max Plank, Đức, đang phân tích ADN của hóa thạch xương tìm thấy tại Croatia của người Neanderthal, loại người hiện đại đã tuyệt chủng 28.000 năm trước, sau khi từng thống trị châu Âu hàng trăm ngàn năm. 8 3.4.Vai trò của vật lý học và công nghệ trong thực tiễn: Vật lý học hiện đại là ngành khoa học được hình thành trong 30 năm đầu của thế kỷ XX, khi nghiên cứu thế giới vi mô - nguyên tử, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các ngành khoa học tự nhiên, và trong nhiều năm tiếp theo là cuộc cách mạng trong các công nghệ ứng dụng những thành tựu của các khoa học ấy (công nghệ năng lượng hạt nhân, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin, công nghệ tự động hoá, công nghệ sinh học...) , đem lại những biến đổi to lớn, sâu sắc trong sản xuất và đời sống con người. Đó là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ của thế kỷ XX tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của một nền kinh tế phát triển cao hơn hẳn nền kinh tế công nghiệp, được gọi với những tên khác nhau: kinh tế sau công nghiệp, kinh tế số hóa, kinh tế thông tin, kinh tế tri thức. Khó có thể kể hết mọi thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhưng thành tựu vừa có tính cơ bản, vừa có tính tổng hợp của nó là máy điều khiển tự động có khả năng làm những công việc trí óc trong chức năng điều khiển của con người. Các máy điều khiển tự động đã mở ra hai công nghệ mới, có quan hệ mật thiết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, ứng dụng rộng rãi không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mà hầu hết trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đó là công nghệ tự động hoá và công nghệ thông tin. Trong lĩnh vực sản xuất, với các máy điều khiển tự động, người ta có thể thực hiện tự động hoá ở từng máy và cả dây chuyền sản xuất, với tính linh hoạt, độ chính xác và năng suất lao động rất 9

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net