Lý luận của chủ nghĩa mác lê nin về khủng hoảng kinh tế và sự vận dụng ở việt nam

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Lý luận của chủ nghĩa mác lê nin về khủng hoảng kinh tế và sự vận dụng ở việt nam

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Môn : Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (học phần 2). Sinh viên: Trần Đức Hải Mã sinh viên: 11131111 Lớp: Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin 2 - 41 Đề tài: Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin về “Khủng hoảng kinh tế” và sự vận dụng ở Việt Nam (liên hệ thực tế ở Việt Nam). BÀI LÀM Lời nói đầu Năm 2008, thế giới vừa trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế chưa từng có trong lịch sử và hậu quả của nó vẫn còn kéo dài cho đến tận ngày nay.Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Mỹ và không lâu sau lan rộng ra khắp thế giới.Không ai có thể tưởng tượng được nền kinh tế số 1 thế giới lại suy sụp nhanh đến vậy và những hậu quả to lớn mà nó ảnh hưởng đến thế giới trong đó có Việt Nam. Chính việc này đã cho em nguồn cảm hứng để chọn đề tài “khủng hoảng kinh tế”. Bài viết được chia thành 4 phần chính : khủng hoảng kinh tế là gì, nguyên nhân, hậu quả, tính chu kì của khủng hoảng kinh tế,đặc điểm của chu kì kinh tế sau chiến tranh thế giới thứ hai, liên hệ thực tiễn ở Việt Nam. Bài viết dựa trên cơ sở kiến thức còn eo hẹp và chủ nghĩa Mác-Lê nin của em kết hợp với tài liệu tham khảo bên ngoài nên còn nhiều sai sót.Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài viết thêm hoàn thiện.Em xin chân thành cảm ơn. I.Khủng hoảng kinh tế là gì: Khủng hoảng kinh tế là biểu hiện của sự mất cân đối trong phát triển kinh tế cụ thể giữa các khu vực, các ngành, các khâu,cung-cầu, sản xuất- tiêu dùng, hàng- tiền trong một thời gian dài mà không điều chỉnh đượcgây ra các tác động tiêu cực đến kinh tế- xã hội trong phạm vi rộng hoặc hẹp.Khi khủng hoảng nổ ra hàng hóa không tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, người dân thất nghiệp, sức mua giảm, thị trường rối loạn. Khủng hoảng vào năm 1825 được coi là thảm họa tài chính toàn thế giới đầu tiên. Sau khi cuộc diễu hành giành độc lập đã lan đến Mỹ Latin, châu Âu đã nhập thêm vốn-tư bản cho lục địa đó, dẫn đến xuất khẩu và các món nợ quốc gia của những nước cộng hòa mới này tăng lên. Số vàng và bạc kiếm được ở Mỹ đã chuyển về cho nước Anh. Sự đầu cơ đông đảo vào các kim loại qúy hiếm đã làm cạn kiệt các ngân hàng nước Anh và dẫn đến phá sản thị trường vốn. Khủng hoảng đã lan ra phần lớn lãnh thổ Tây Âu và Mỹ Latin. Khủng hoảng trong thị trường chứng khoán năm 1836-1837 đã bao phủ những quốc gia Anh, Đức và Hà Lan, gắn bó với những vốn đầu tư vô căn cứ được góp vào sự phát triển của những đường xe lửa. Và kết qủa là toàn bộ hệ thống ngân hàng những nước đó bị tổn thương nghiêm trọng. Vào năm 1857 một trong những khủng hoảng có quy mô lớn nhất thế kỷ 19 bùng nổ. Những công ty đường xe lửa bị phá sản hoàn toàn dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng quốc gia nhiều nước, rồi đến sự sập đổ của hệ thống ngân hàng toàn châu Âu. Lý do khủng hoảng tiền tệ năm 1861 ở Mỹ là cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc. Nhà nước đã không thể thanh toán được văn tự nợ sau khi vay ngân hàng. Khủng hoảng đã xuất hiện và kéo dài đến cuối cuộc chiến tranh. Vào năm 1914 khủng hoảng tài chính tiếp theo bùng lên. Nhà nước Mỹ và phần lớn những nước châu Âu đã bán tống bán tháo ngân phiếu nhiều quốc gia khác để cung cấp cho những hoạt động quân sự của nước mình. Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới hoàn toàn là khủng hoảng kinh tế. Thời kỳ Đình Trệ năm 1920-1922 và giai đoạn Đình Đốn Vĩ Đại năm 1929-1933 đã tác động đến đời sống mọi giới con người. Mùng 4 tháng 10 năm 1929 (“Thứ năm đen”), ở thị trường chứng khoán Niu-Yoóc, giá chứng khoán giảm đi 60-70%. Cùng lúc đó, nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng của Mỹ đã sụp đổ nhanh chóng. Đến cuối tháng, những người giữ cổ phiếu bị mất hơn 15 tỷ đô-la, còn đến cuối năm giá chứng khoán sụt xuống 40 tỷ đô-la – số tiền khổng lồ vào thời điểm đó. Ngay tiếp sau đó, khủng hoảng bùng lên cả ở châu Âu. Vào năm 1933, ở những nước phát triển có tới hơn 30 triệu người chính thức không có việc làm. Khủng hoảng năm 1957-1958 lan tràn ra Mỹ, Canada và những nước Tây Âu. Sản xuất công nghiệp thế giới giảm đi 4%. Kinh tế Mỹ vào năm 1973-1974 bị thu hẹp lại và giống như trong thời kỳ Đình Đốn Vĩ Đại. Khủng hoảng bao trùm toàn bộ châu Âu. Ở Anh giá chứng khoán giảm đi 56%. Tình hình còn trầm trọng thêm vì khủng hoảng dầu mỏ kèm theo, giá một thùng dầu tăng từ 3 lên thành 12 đô-la. Ngày 19 tháng 10 năm 1987 được ghi nhớ ở lịch sử Mỹ là “Thứ hai đen tối”. Trong vòng một ngày, chỉ số quỹ Dow Jones Industrial sụt đi 22,6%. Tiếp theo thị trường Canada và Úc bị sụt giảm, còn sở giao dịch Hồng Kông nghỉ việc trong vòng một tuần. Vào năm 1994-1995, khủng hoảng nổ ra ở Mêhicô, hai năm sau thị trường quỹ của châu Á sụp đổ. Các chuyên gia kết luận rằng khủng hoảng ở châu Á làm GDP thế giới giảm 2 ngàn tỷ đô-la. Một năm sau Nga đã phải tuyên bố lạm phát và chấp nhận buông xuôi, vì món nợ nhà nước quá lớn. Thị giá đồng Rúp sụt giảm, còn những người đầu tư quay lưng lại với kinh tế Nga. Khủng hoảng năm 2008 là khủng hoảng đầu tiên đối với chúng ta, nó tác động đến nhiều mặt sản xuất trong nền kinh tế của Việt Nam như bất động sản, ngân hàng, lạm phát, .... Từ những điểm mốc trong lịch sử người ta tính ra được khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản mang tính chu kì, cứ khoảng từ 8 đến 12 năm, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa lại phải qua một cuộc khủng hoảng. II.Nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản: Nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ chính các mâu thuẫn của tư bản chủ nghĩa với chức năng lưu thông của tiền tệ là mầm mống thúc đẩy. Có 3 mâu thuẫn cơ bản quan hệ biện chứng với nhau từ đó làm xuất hiện khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản: Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vô chính phủ trong toàn xã hội: thời kì đầu con người chỉ sản xuất ra một lượng hàng hóa đủ để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân, sản xuất để trao đổi chưa phát triển, vì vậy mà trao đổi hạn chế, thị trường hạn chế, phương thức sản xuất ổn định, sự đóng cửa có tính chất địa phương đối với thế giới bên ngoài, sự thống nhất có tính chất địa phương ở trong nước, phường hội ở thành thị.Nhưng cùng với sự mở rộng của sản xuất hàng hóa và nhất là cùng với sự xuất hiện của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì những quy luật trước đó bị phá hủy.Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất xã hội bộc lộ ra bên ngoài và ngày càng bị đẩy đến chỗ cùng cực. Nhưng công cụ chủ yếu nhất mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dùng để làm tăng thêm tình trạng vô chính phủ ấy trong sản xuất xã hội, chính là cái đối lập trực tiếp với tình trạng vô chính phủ; đó là sự tổ chức ngày càng chặt chẽkhoa học ở trong từng xí nghiệp sản xuất cá biệt. Chính là nhờ cái đòn bẩy ấy mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chấm dứt tình trạng ổn định hòa bình trước kia.Đấu tranh không phải chỉ nổ ra giữa những người sản xuất cá thể trong từng địa phương; những cuộc đấu tranh địa phương đến lượt chúng, lại phát triển thành những cuộc đấu tranh giữa các nước, thành những cuộc chiến tranh thương nghiệp trong thê kỷ XVII và XVIII. Cuối cùng đại công nghiệp và sự tạo ra thi trường thế giới đã làm cho cuộc đấu tranh lan rộng khắp nơi và đồng thời đem lại cho nó một tính chất kịch liệt chưa từng thấy. Giữa những nhà tư bản cá biệt cũng như giữa cả những ngành sản xuất và giữa cà các nước, sự thuận lợi của những điêu kiện tự nhiên hoặc nhân tạo của sản xuất quyết đinh sự sống còn của họ. Kẻ thất bại bị loại trừ thẳng tay.Chính điều đó đã buộc các nhà tư bản cải tiến máy móc, công nghệ sản xuất, phương thức tổ chức, quản lí để truy cầu giá trị thặng dư và tồn tại. Việc này vô hình chung đã góp phần thúc đẩy thêm mâu thuẫn thứ hai. Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng không có giới hạn của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do bị bần cùng hóa : Các nhà tư bản luôn theo đuổi giá trị thặng dư không có giới hạn, đó là quy luật tuyệt đối trong chủ nghĩa tư bản và để làm được điều đó nhà tư bản có khuynh hướng tích lũy, mở rộng, cải tiến máy móc, công nghệ. Máy móc được cải tiến đồng nghĩa với việc sẽ rút ngắn được thời gian sản xuất, tăng sản lượng,.... nhưng về bản chất vẫn là tăng sức bóc lột người công nhân. Lao động thủ công của nhiều người sẽ bị thay thế bằng một vài người sử dụng máy móc. Hậu quả là có một bộ phận không nhỏ người công nhân bị thất nghiệp. Như vậy vô hình chung máy móc đã trở thành công cụ của giai cấp tư bản để chống lại người lao động, nó trở thành phương tiện chắc chắn nhất để biến toàn bộ cuộc đời của người công nhân và của gia đình họ thành thời gian lao động tiềm tàng để làm tăng thêm giá trị của tư bản. Tuy nhiên giá trị thặng dư mà các nhà tư bản kiếm được từ việc nâng cao công nghệ sản xuất vẫn chỉ là lý thuyết nếu như hàng hóa của họ không tiêu thụ được, quy trình tiền- hàng-tiền’ bị gián đoạn, giá trị thặng dư chỉ là một thứ hão huyền nhìn thấy được mà không thể sở hữu, có được nó. Vậy tại sao hàng hóa của họ lại không bán được? Nguyên nhân là do song song với việc nhà tư bản thu được nhiều giá trị thặng dư hơn đồng nghĩa với việc quần chúng nhân dân lao động ngày càng bị bần cùng hóa. Chúng ta có thể coi như đó là hai đầu của một chiếc bập bênh, phía nhà tư bản càng ở trên cao bao nhiêu thì phía của nhân dân lao động càng xuống thấp bấy nhiêu. Người giàu càng giàu, còn người nghèo càng nghèo. Mọi việc sau đó diễn ra theo đúng quy luật, cung lớn hơn cầu, hàng hóa ế ẩm, dư thừa. Tình trạng thừa hàng hóa không phải là so với nhu cầu của xã hội mà là “thừa” so với sức mua của người dân. Và trông chờ ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa một sự phân phối sản phẩm khác thì cũng chẳng khác gì dòi hỏi những điện cực của một bộ ắc-quy trong khi chúng vẫn tiếp xúc với nước, sẽ không phân giải nước nữa và không tạo ra ô-xy ở cực dương và hy-drô ở cực âm nữa. Trong lúc khủng hoảng diễn ra, hàng hóa đang bị phá hủy thì hàng triệu người lao động lâm vào tình trạng đói khổ do không có khả năng thanh toán. Việc này đã thúc đẩy mâu thuẫn thứ 3. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư bản và giai cấp lao động làm thuê: Cùng với việc giai cấp vô sản trên thế giới ngày càng lớn mạnh, người lao động ngày càng được khai sáng các cuộc bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm ngày càng nhiều. Tuy nhiên nhà tư bản luôn luôn đặt lợi ích của mình lên hàng đầu cho nên mâu thuẫn khó được giải quyết và ngày càng trở nên gay gắt. Người lao động và nhà tư bản khó có thể tìm được tiếng nói chung. Và mâu thuẫn khi lên đến đỉnh điểm sẽ tạo ra những sự xáo trộn cả về kinh tế, xã hội, chính trị. Có thể thấy 3 mâu thuẫn trên liên hệ với nhau một cách có quy luật, chúng cùng thúc đẩy nhau tạo nên khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. III.Hậu quả của khủng hoảng kinh tế: Lực lượng sản xuất bị phá hoại và làm rối loạn lĩnh vực lưu thông: mỗi lần xảy ra khủng hoảng, hàng loạt xí nghiệp đóng cửa, quy mô sản xuất bị thu hẹp lại, giá cả thị trường giảm sút mạnh, khối lượng mậu dịch trong và ngoài nước bị thu hẹp lại, nhiều ngân hàng phải đóng cửa, giá cổ phiếu hạ thấp. Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản từ đó dẫn tới độc quyền: khủng hoảng vừa là nguy cơ nhưng cũng là cơ hội cho những nhà tư bản có tiềm lực mạnh, chiến lược tốt, tầm nhìn bao quát. Khối lượng của cải trong xã hội đạt đến số lượng nhiều, những nhà tư bản yếu kém sẽ bị thôn tính, kẻ mạnh sẽ sống sót và càng mạnh hơn. Từ đó dẫn tới sự hình thành các nhà tư bản độc quyền hoặc các tổ chức kinh tế độc quyền. Khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày càng tăng. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt. IV.Tính chu kì trong khủng hoảng kinh tế: Chu kì kinh tế của chủ nghĩa tư bản là khoảng thời gian là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vận động từ đầu cuộc khủng hoảng này đến đầu khủng hoảng sau. Chu kì kinh tế gồm 4 giai đoạn: khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh. - Khủng hoảng: là giai đoạn khởi điểm của chu kì kinh tế mới. Ở giai đoạn này hàng hóa ế thừa, dự trữ hàng hóa trong kho của các xí nghiệp tăng lên, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình trệ, xí nghiệp đóng cửa, công nhân thất nghiệp hàng loạt, tiền công hạ xuống. Cuộc cạnh tranh để tiêu thụ hàng hóa trở nên gay gắt, sản xuất bị thu hẹp. Tư bản mất khả năng thanh toán các khoản nợ, tâm lí hoảng loạn,việc rút tiền khỏi ngân hàng, bán cổ phiếu, trái phiếu làm giá thị trường giảm mạnh.Khủng hoảng đã phá hủy nghiêm trọng lực lượng sản xuất, người lao động thất nghiệp, đời sống hết sức khó khăn. Và đây lại là cơ hội thuận lợi để cho nhà tư bản tăng cường bóc lột công nhân. Để sinh tồn, người lao động phải chấp nhận làm việc với tiền lương thấp và cường độ lao động cao. Đây là giai đoạn mà các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội. - Tiêu điều: là giai đoạn tiếp sau khủng hoảng. Đặc điểm của giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ, không tiếp tục giảm sút nhưng cũng không tăng lên, thương nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem bán phá giá, tư bản để rỗi nhiều vì không có chỗ đầu tư. Để thoát khỏi tình trạng bế tắc các nhà tư bản còn trụ lại được tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất bằng việc tăng cường bóc lột công nhân ( hạ tiền lương, tăng cường độ lao động,...) và đổi mới tư bản cố định, cải tiến sản xuất.Việc đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung của nền kinh tế. - Phục hồi: là giai đoạn nối tiếp sau giai đoạn tiêu điều. Đây là giai đoạn mà các xí nghiệp được khôi phục và mở rộng sản xuất nhờ đổi mới tư bản cố định. Sản xuất được mở rộng và đạt mức trước khủng hoảng. Công nhân lại được tuyển vào làm việc, giá cả hàng hóa tăng lên, lợi nhuận tư bản cũng tăng lên, nền kinh tế bước sang giai đoạn mới, giai đoạn hưng thịnh. - Hưng thịnh: là giai đoạn phát triển cao nhất của chu kì kinh tế, sản xuất phát triển vượt quá điểm cao nhất mà chu kì trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất lại vượt quá mức của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một cuộc khủng hoảng kinh tế mới. V. Đặc điểm của chu kì khủng hoảng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay: Khủng hoảng kinh tế không gay gắt như trước: Khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 làm cho sản xuất công nghiệp ở các nước tư bản phát triển trong thời gian này bị thụt lùi hàng chục năm. Nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ hai khủng hoảng kinh tế chỉ làm sản xuất công nghiệp giảm tương đối nhẹ. Vật giá leo thang trong khủng hoảng: thông thường khi khủng hoảng xảy ra hàng hóa dư thừa, ế ẩm, giá cả tụt mạnh nhưng sau chiến tranh vật giá chỉ giảm nhẹ và đặc biệt đến thập kỉ 60, 70 của thế kỉ XX thì vật giá lại tăng mạnh, tốc độ tăng giá lên tới mức hai con số ở nhiều nước. Đây là hiện tượng chưa hề có trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản trước chiến tranh. Sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng trung gian, khủng hoảng cơ cấu: - Khủng hoảng trung gian là cuộc khủng hoảng nhẹ xảy ra giữa hai cuộc khủng hoảng lớn. Ví dụ ở Mỹ trong khoảng thời gian từ cuộc khủng hoảng 1948- 1949 đến cuộc khủng hoảng 1957- 1958 có một cuộc khủng hoảng trung gian là khủng hoảng 1953- 1954. - Khủng hoảng cơ cấu là khủng hoảng xảy trong từng ngành, từng lĩnh vực riêng biệt như:khủng hoảng năng lượng, nhiên liệu, khủng hoảng dầu mỏ, khủng hoảng tiền tệ.Khủng hoảng cơ cấu xảy ra là do tác động của khoa học công nghệ mở ra ngành sản xuất mới đồng thời làm suy yếu những ngành nghề truyền thống; các nước tư bản mất nguồn cung cấp nguyên liệu khi mà các nước thuộc địa giành được độc lập; sự tăng cường điều tiết của nhà nước tư bản độc quyền đối với các quá trình kinh tế; dấu hiệu để nhận biết tiêu điều và phồn thịnh không rõ ràng. VI. Liên hệ thực tiễn đến Việt Nam: Việt Nam là một nước định hướng xã hội chủ nghĩa, may mắn không xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế chu kì như các nước phát triển trên thế giới. Tuy nhiên nước ta đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu , bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Nền kinh tế còn mang tính tự cung tự cấp. Trước tình hình đó Đảng và nhà nước đã có chiến lược khuyến khích vốn đầu tư nước ngoài, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường xuất khẩu. Và thực tế đã chứng minh cách làm đó là đúng đắn khi Việt Nam đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Việt Nam từ nước nhập khẩu gạo đã trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai trên thế giới, cả nước có gần 5300 công trình thủy lợi. Trong công nghiệp cả nước có 2821 xí nghiệp trung ương, địa phương, 590246 cơ sở sản xuất ngoài quốc doanh. Tuy nhiên do nhận được nhiều sự đầu tư của nước ngoài nên khi khủng hoảng kinh tế nổ ra thì rõ ràng Việt Nam sẽ phải chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến nền kinh tế. Những tháng cuối năm 2008 dịch bệnh xuất phát từ một đất nước kinh tế hùng mạnh như Mỹ, dịch lan nhanh, rất nguy hiểm, cứ thế là tràn ra khắp thế giới. Tác động bởi sự suy thoái toàn cầu, đã đảo lộn và ảnh hưởng đến các nước, rõ nhất vẫn là hệ thống tài chính, ngân hàng của mỗi nước. Tại Việt nam, phần lớn hoạt động sản xuất phục vụ cho lĩnh vực xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong đó các thị trường lớn như : Mỹ, EU, Nhật là những thị trường truyền thống nhập khẩu hàng sản xuất từ Việt nam đang bị khủng hoảng, do mức sinh hoạt của người dân bị đảo lộn, đòi hỏi mọi người phải cắt giảm chi tiêu, thắt lưng buột bụng, mức độ mua hàng giảm, nhu cầu thanh toán yếu …Việt nam là một trong những nước ảnh hưởng nặng trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa. TIỀN(Triệu STT MẶT HÀNG USD) 1 Dầu thô 10450 2 Dệt May 9108 3 Da giầy 4697 4 Hải sản 4562 5 Lúa gạo 2902 6 Đồ gỗ 2779 7 Điện tử ,máy tính 2703 8 Cà phê 2022 9 Cao su 1597 10 Than đá 1444 11 Dây & cáp điện 1014 12 Khác 19622 Điều đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt nam bị sụt giảm, từ mức 8,48% năm 2007 xuống còn 6,23% năm 2008 và chỉ còn 5,32% năm 2009. Từ tác động của khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng đến các thị trường Mỹ, EU, Nhật…chính sự khó khăn của thị trường, ảnh hưởng đến sản phẩm của Việt nam, có thời điểm nông sản xuất khẩu giảm mạnh so với thời điểm giá cao nhất trong năm : Gạo đã giảm 58%, Cao su giảm 48%, Cà phê giảm 24%... cả những tháng đầu năm 2009 so với 2008 Tổng kim ngạch xuất khẩu Nông, Lâm ,Thủy sản… Việt nam giảm 15%. Sự tác động khủng hoảng Thế giới làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt nam gặp rất nhiều khó khăn một phần bị từ chối hợp đồng, sản phẩm tiêu thụ chậm, hàng tồn kho ngày càng nhiều. Phần thì chịu ảnh hưởng của chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế tăng trưởng tín dụng ngân hàng làm lãi suất cho vay cao vượt xa khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.Tuy rằng ngân hàng nhà nước đã đưa mức lãi trần nhưng đều không đạt kết quả do các ngân hàng thương mại không thực hiện triệt để. Nợ xấu ngân hàng ngày càng có xu hướng gia tăng. Từ những lý do trên các doanh nghiệp khó, lại càng khó hơn và số doanh nghiệp đã tự giác đóng cửa, tuyên bố phá sản tăng 21,8% so với năm 2010 và công nhân là những nạn nhân gánh hậu quả, thực tế là thất nghiệp ngày càng nhiều hơn. Doanh số bán lẻ và tiêu dùng dịch vụ năm 2011 chỉ tăng 4% mức tăng thấp nhất từ trước đến nay, Bên cạnh đó, công tác nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam cũng không tốt hơn các doanh nghiệp xuất khẩu. Người lao động thu nhập thấp hơn chi dùng, để giảm khó khăn cho sinh hoạt gia đình người dân phải cắt, giảm chi tiêu, thất nghiệp trong xã hội gia tăng, … làm cho những doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam ngần ngại trước cuộc sống mà mức thu nhập của người dân thấp hơn so với mức tiêu dùng hàng hóa, vậy giới hạn nhập khẩu hàng tiêu dùng của các doanh nghiệp nằm trong một số mặt hàng cần thiết mà các nhà nhập khẩu Việt Nam xác định giới hạn an toàn không bị lỗ, nhưng nhập mức độ cầm chừng hoặc co cụm, hạn chế phát triển và mở rộng. Từ xuất khẩu cho đến nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đều giảm, gây khó khăn cho các doanh nghiệp làm dịch vụ, sản xuất các phụ liệu đi kèm, hỗ trợ cho xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng như: bao bì, đóng gói, vận chuyển… đều giảm, lượng hàng tồn kho tăng... Trước tình hình đó, nhà nước và các doanh nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ để cùng giúp cho nền kinh tế phục hồi trở lại. Lường trước sự khó khăn, hợp tác liên kết kinh doanh và tận dụng cơ hội khai thác thị trường mới: trong thời kỳ khủng hoảng toàn cầu các doanh nghiệp đều cố gắng thắt lưng, buộc bụng, tiết kiệm, kết hợp với nhau vượt qua thời điểm khó khăn này, các doanh nghiệp thành lập câu lạc bộ, cùng có tiếng nói chung với đối tác quốc tế, tránh tranh mua, dành bán trong nước làm thiệt hại cho các doanh nghiệp, phải có kế hoạch, phải có chiến lược và hướng đi, cùng hợp tác, liên kết tạo thành sức mạnh trong lợi thế so sánh. Tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành nghề trong việc đa dạng hóa các hình thức liên kết. Thiết lập các quỹ hỗ trợ tài chính, quỹ nghiên cứu khoa học nhằm thực hiện các dự án nghiên cứu chung của các doanh nghiệp, tăng cường hợp tác thay vì cạnh tranh chia sẻ thị trường. Trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn có những cơ hội đến với chúng ta nếu chúng ta biết đón bắt nó lúc nào, và như thế nào, ngay trong lúc này các doanh nghiệp phải cùng nhau khai thác thế mạnh của mình trên các thị trường Mỹ, EU, Nhật,( trong cái rủi có cái may, cũng có những doanh nghiệp nước khác bị khủng hoảng, không có khả năng bước vào thị trường này nên nó cũng là cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam), ngay lúc này các doanh nghiệp nhanh chân mở rộng, tìm kiếm thị trường mới như : Trung đông, Ai cập… Các mặt hàng chủ lực của chúng ta như gạo, chè, thủy sản, rau quả, may mặc…đang xâm nhập vào thị trường này nhưng vẫn còn rất yếu, các doanh nghiệp cần nắm bắt các thông tin, nhanh chóng, kịp thời giải quyết thông tin, đây là thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp. Trong thời kỳ khủng hoảng này “Cái khó ló cái khôn” các doanh nghiệp phải tạo cơ hội cho mình, hợp tác, xác định làm ăn lâu dài, khẳng định tiềm năng, thương hiệu của mình trên thị trường, trên mảnh đất mới này. Không phải chúng ta chỉ dừng lại từ thị trường Ai Cập mà chúng ta phải vươn xa, vươn rộng trên mảnh đất kim cương này thông qua con đường Ai Cập. Đối với thị trường trong nước, trong những năm gần đây nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đang là thị trường giàu tiềm năng, còn bỏ ngõ. Vì vậy việc đầu tư công nghệ tham gia vào khâu chế biến, bảo quản và phân phối sau thu hoạch tại những vùng sản xuất trọng điểmcủa đất nước. Có lẽ đây cũng là thời cơ lớn để doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường nội địa, một thị trường được đánh giá thiếu tính ổn định nhiếu năm qua. Như vậy sau cơn khủng hoảng các doanh nghiệp vừa có thị trường truyền thống vừa mở rộng thị trường mới quốc tế. Nhà nước luôn theo dõi và đưa ra những định hướng hỗ trợ cho các Doanh nghiệp :Đa dạng hóa các hình thức xuất khẩu, quan tâm hơn các kênh phân phối tại nước nhập khẩu, tổ chức hội chợ, quảng bá thương hiệu, quảng bá hình ảnh của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn mở các văn phòng đại diện ở những thị trường lớn và tốt nhằm dễ nắm thông tin, xác định khách hàng và tìm kiếm khách hàng, theo dõi tình hình thị trường, giảm thiểu rủi ro cho nhà xuất khẩu, tiếp cận thị trường nhanh, khai thác các lợi thế mà các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu lợi thế cạnh tranh đó đến nước sở tại có lợi thế cạnh tranh hơn. Chính sách Nhà nước và Doanh nghiệp thắt lưng, buộc bụng, vượt khó:Những khó khăn mà khủng hoảng toàn cầu mang lại đã làm cho hoạt động xuất khẩu bị khó khăn, một số doanh nghiệp co cụm sản xuất hoặc đóng cửa ngừng hoạt động và công nhân mất việc vì Doanh nghiệp không có tiền trả lương, hàng bán chậm, vay ngân hàng đến hạn không đáo hạn được …để các Doanh nghiệp không bị đình đốn sản xuất, xuất khẩu, không bị vỡ hợp đồng do thiếu tài chính, Nhà nước đã chỉ đạo các ngân hàng khoanh nợ, giãn nợ và tiếp tục cho vay. Bên cạnh đó Nhà nước áp dụng hàng loạt biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát với chính sách tài khóa, giảm hạn mức cho vay đầu tư bất động sản và chứng khoán, hạn chế lưu thông tiền mặt, cho tạm hoãn, giãn tiến độ thi công một số công trình đầu tư xây dựng cơ bản kém hiệu quả, tập trung vốn cho các công trình mang lại hiệu quả kinh tế thấy được như: Nhà máy điện, Nhà máy lọc dầu…đồng thời hạn chế thất thu thuế, tích cực thu thuế , nợ tồn đọng Ngoài ra, Chính phủ điều hành chính sách tiền tệ, linh hoạt, hiệu quả : tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, điều chỉnh thuế suất thuế xuất khẩu, cũng như thuế suất thuế nhập khẩu một số mặt hàng nhằm tránh những hiện tượng tiêu cực đổ bể mang tính dây chuyền với thị trường trong nước và có giải pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời không để chúng xuất hiện, Nhà nước phải quản lý chặt việc giao dịch ngoại tệ trên thị trường tự do nhằm hạn chế sự đầu cơ ngoại tệ và gây sức ép tỷ giá, thông qua Ngân hàng Nhà nước tiến hành thực hiện nghiệp vụ bán ngoại tệ làm giảm và bình ổn tỷ giá trên thị trường, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập các

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net