Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ma văn kháng sau 1975 [full]

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của ma văn kháng sau 1975 [full]

1 2 BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO Công trình ñược hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ----- ----- ----- ----- NGÔ TRÍ TÀI Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Ngọc Thu THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA MA VĂN Phản biện 1: PGS. TS. Nguyễn Phong Nam KHÁNG SAU 1975 Phản biện 2: TS. Nguyễn Khắc Sính Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.34 Luận văn sẽ ñược bảo vệ tại Hội ñồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn, họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ 26 tháng 09 năm 2010. KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Có thể tìm luận văn tại: Đà Nẵng – Năm 2010 - Trung tâm Thông tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng - Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng 3 4 MỞ ĐẦU 2. Lịch sử vấn ñề Cho ñến nay, ñã có một số bài viết, nghiên cứu về truyện 1. Lí do chọn ñề tài ngắn cũng như sáng tác của Ma Văn Kháng mà theo chúng tôi, có Ma Văn Kháng thuộc thế hệ nhà văn cầm bút vào những năm liên quan ít nhiều ñến nhân vật trong tác phẩm của ông. Có thể ñiểm miền Bắc bắt ñầu công cuộc xây dựng xã hội mới. Ông cũng là một lại theo thời gian như sau: trong những cây bút văn xuôi chủ lực và sung sức của nền văn học Bùi Việt Thắng trong cuốn Bình luận truyện ngắn ñã ñề cập Việt Nam hiện ñại ở cả hai thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Tuy ñến tập truyện Ngày ñẹp trời (1986) của Ma Văn Kháng: “Ấn tượng nhiên, so với tiểu thuyết, dư luận vẫn còn ít quan tâm ñến mảng chung của bạn ñọc trên tập sách này là nhà văn ñã cố gắng khai thác truyện ngắn của ông, chưa thấy ñược nét ñộc ñáo cũng như mối quan sâu hơn vào những luồng lạch sâu kín nhất, tinh vi nhất của ñời sống hệ giữa hai thể loại này trong sáng tác của Ma Văn Kháng. Từ ñó, thế tình cảm con người sống ñồng thời với chúng ta” [48, tr. 269]. giới nhân vật trong truyện ngắn của nhà văn cũng chưa ñược người Tác giả Lã Nguyên (La Khắc Hòa) trong bài tiểu luận Khi ñọc chú ý. nhà văn ñào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn (1999) ñã nhấn mạnh: Sau 1975, khi ñất nước hòa bình và thống nhất, văn học Việt “Ma Văn Kháng thường miêu tả tướng hình ñể thể hiện tính người, Nam ñã có sự vận ñộng, phát triển không ngừng ñể từng bước ñổi tình người […] và sự cố ý tô ñậm chân dung, tính cách nhân vật là mới, hội nhập với văn học nhân loại. Như “một sức chảy xiết”, Ma ñặc ñiểm nổi bật của truyện ngắn Ma Văn Kháng” [22, tr. 9-25]. La Văn Kháng ñã góp phần tiên phong báo hiệu công cuộc ñổi mới ấy Khắc Hòa còn có bài Giáp hạt văn chương? ñăng trên Văn nghệ trẻ và ñạt ñược nhiều thành tựu ñáng kể với tiểu thuyết Mùa lá rụng (số 5, 2007). Trong bài viết này, ông cho rằng: “ Ma Văn Kháng trong vườn (giải B của Hội Nhà văn, 1986), tập truyện ngắn Trăng miêu tả tính cách với chiều sâu tâm lí trên cơ sở một triết học nhân soi sân nhỏ (giải thưởng của Hội ñồng văn xuôi Việt Nam, 1995)… bản về bản chất xã hội và bản chất tự nhiên của con người” [14, tr.3]. Trong mấy năm gần ñây, tác phẩm của Ma Văn Kháng ñã Trên trang web “binhthuan.gov.vn”, Nguyễn Ngọc Thiện ñược ñưa vào giảng dạy trong nhà trường trung học phổ thông. Vì trong bài viết Một cây bút văn xuôi sung sức, một ñời văn cần mẫn vậy, nghiên cứu “Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng (2000) ñã nhấn mạnh: “Đặc biệt, trong vận dụng thể loại tự sự, nhà sau 1975” không chỉ ñể tìm hiểu con ñường sáng tác của nhà văn, văn ñã phát huy ñược ưu thế của việc miêu tả tâm lí nhân vật khi lách thấy ñược quá trình vận ñộng của văn học Việt Nam sau 1975 mà còn sâu vào vùng tâm linh bí ẩn của con người” [60]. thiết thực giúp ích cho việc dạy học văn trong nhà trường. Từ ñó, Phong Lê trong bài viết Trữ lượng Ma Văn Kháng ñã nhấn chúng tôi hi vọng ñem ñến cái nhìn toàn diện hơn về vị trí cũng như mạnh: “Nhập vào ñời sống thành thị, tầm quan sát và khả năng bao sự ñóng góp nhiều mặt của Ma Văn Kháng trong nền văn xuôi ñương quát của Ma Văn Kháng bỗng ñược mở ra trên một trường diện rất ñại. 5 6 rộng; và thế giới nhân vật của anh bỗng trở nên ñông ñúc ñến chen vật của Ma Văn Kháng, “người trí thức ñương thời có vai trò quan chúc, khó có thể quy vào các tuyến quen thuộc cũ” [32, tr. 99]. trọng, là linh hồn và tư tưởng của nhiều tác phẩm […]. Ma Văn Trên báo Công an nhân dân (26/9/2007), Võ Văn Trực có Kháng là nhà văn viết về bi kịch của người trí thức nước ta hay và bài viết: Nhà văn Ma Văn Kháng – chi chút như con ong làm mật. thấu tình ñạt lí nhất” [5, tr.52]. Tác giả ñã ñưa ra nhận xét rất tinh tế: “Chi chút chắt lọc từng mẩu Gần ñây, dư luận quan tâm ñến tập Trốn nợ (2009) của Ma nhỏ của cuộc ñời, anh (tức Ma Văn Kháng) sống chan hoà với học Văn Kháng. Tác giả Nguyễn Thị Bích trong bài viết Nhân vật nữ sinh, với bà con dân bản ñể tái hiện những thời ñiểm lịch sử chao trong tập “Trốn nợ” ñã nhận xét: “Nhân vật người phụ nữ ñược ưu chát búa rìu, dựng những nhân vật ñộc ñáo, giàu cá tính”[61]. ái, trân trọng và ñồng cảm[…]. Nhà văn ñã cá tính hoá nhân vật của Nói về những ñổi mới nghệ thuật của Ma Văn Kháng, tác giả mình. Họ ñầy nghị lực và khát vọng sống. Họ mang một vẻ ñẹp phồn Nguyễn Thị Bình trong cuốn Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995, những thực ñầy chất sinh toả. Và ở bất kì hoàn cảnh nào họ cũng sáng lên vẻ ñổi mới cơ bản (2007) cho rằng, tác phẩm của Ma Văn Kháng chú ñẹp tâm hồn” [58]. trọng hiện thực của tâm trạng và tâm linh khi miêu tả con người. Nhìn chung, các bài viết của các tác giả trên không chỉ khẳng Cũng theo Nguyễn Thị Bình, trong khi quan tâm ñến con người, Ma ñịnh ñặc sắc sáng tác Ma Văn Kháng mà còn ít nhiều quan tâm ñến Văn Kháng “có thiên hướng nghiêng hẳn về việc khám phá giá trị nhân vật và cách thể hiện nhân vật trong truyện ngắn của ông. Tuy nhân cách, cắt nghĩa sự nhào nặn của môi trường ñạo ñức - văn hóa nhiên, phần lớn mới chỉ dừng lại ở việc cảm nhận những tác phẩm cụ ñối với tính cách và số phận cá nhân” [3, tr. 61]. thể hoặc ñánh giá chung về sáng tác của Ma Văn Kháng mà chưa ñi Đề cập ñến truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 về ñề tài sâu tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau miền núi, tạp chí Ngôn ngữ (số 10, 2008) ñăng bài viết: Nét ñặc sắc 1975. của lời trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng viết về ñề tài dân Kế thừa thành tựu của những người ñi trước, luận văn này tộc - miền núi sau 1975 của Đào Thuỷ Nguyên và Nguyễn Thị Thu bước ñầu tìm hiểu những ñặc ñiểm của thế giới nhân vật và nghệ Trang. Hai tác giả ñã hướng vào tập Móng vuốt thời gian ñể ñi ñến thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng một cách kết luận về mặt lời văn nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng: ñầy ñủ, cụ thể và hệ thống hơn. Trên cơ sở ñó, thấy ñược ñóng góp “… nhà văn ñã khéo léo tạo cho lời trần thuật mang ñậm sắc thái cảm của Ma Văn Kháng cho công cuộc ñổi mới văn học Việt Nam sau xúc trong mối quan hệ giữa người trần thuật – nhân vật - người ñọc, 1975. tạo nên tính hiện ñại cho lời văn nghệ thuật” [38, tr.18]. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Liên quan ñến thế giới nhân vật trong sáng tác của Ma Văn 3.1. Đối tượng nghiên cứu Kháng còn phải kể ñến bài viết Ma Văn Kháng và dòng chảy văn Những ñặc ñiểm nổi bật của thế giới nhân vật và nghệ thuật chương (2009) của Anh Chi. Tác giả cho rằng, trong thế giới nhân thể hiện nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975. 7 8 3.2. Phạm vi nghiên cứu ñịnh về làm thư kí riêng cho Bí thư tỉnh ủy Lào Cai. Tháng 5 năm Giới hạn chủ yếu qua các truyện ngắn ñược viết sau 1975 in 1976, Ma Văn Kháng chia tay với Lào Cai ñể trở về Hà Nội và cho ra trong các tập Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tập 1, 2, 3, 4 – NXB Công ñời nhiều tác phẩm có giá trị, ñem ñến vinh quang cho ông trên bước an Nhân dân, 2003). ñường sự nghiệp. 4. Phương pháp nghiên cứu Không chỉ thể hiện tài năng sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn - Phương pháp nghiên cứu văn học sử về tác giả văn học. Kháng còn ñảm trách vai trò là một người quản lí như tổng biên tập - Phương pháp tiếp cận hệ thống. Nhà xuất bản Lao ñộng, tổng biên tập Tạp chí Văn học nước ngoài, - Phương pháp so sánh, ñối chiếu (ñồng ñại và lịch ñại). Ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam… - Phương pháp thống kê, phân loại. Cuộc ñời nhiều trải nghiệm ñã ñể lại dấu ấn trên những trang - Phương pháp phân tích nhân vật. văn ñậm ñà hơi thở cuộc sống của Ma Văn Kháng, nhất là qua thế 5. Cấu trúc của luận văn giới nhân vật với nhiều loại người, mang những phẩm chất, tính cách Ngoài phần mở ñầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: khác nhau. - Chương 1: Vài nét về cuộc ñời và con ñường ñến với văn chương 1.2. Con ñường ñến với văn chương của Ma Văn Kháng của Ma Văn Kháng. Không giống như nhiều nhà văn cùng thời, Ma Văn Kháng - Chương 2: Đặc ñiểm nổi bật của thế giới nhân vật trong truyện ngắn bước chân vào con ñường sáng tác chuyên nghiệp khá muộn. Tuy Ma Văn Kháng sau 1975. nhiên, lần theo hồi kí của Ma Văn Kháng, có thể thấy tác giả biểu lộ - Chương 3: Nghệ thuật thể hiện thế giới nhân vật trong truyện ngắn tình yêu ñối với văn chương ngay từ thời trung học. Con ñường văn Ma Văn Kháng sau 1975. chương của ông ñược hình thành từ ñó. 1.2.1. Chặng ñường trước 1975 Những năm tháng tuổi hai mươi ñẹp nhất, Ma Văn Kháng ñã CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ CON ĐƯỜNG ĐẾN tìm ñến văn chương bằng tất cả niềm ñam mê của một con người VỚI VĂN CHƯƠNG CỦA MA VĂN KHÁNG luôn ấp ủ khát khao sáng tạo. Nổi bật trong các sáng tác của Ma Văn 1.1. Cuộc ñời Ma Văn Kháng Kháng ở chặng ñường ñầu tiên là những trang viết về con người miền Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936 núi giữa những ngày ñi lên xây dựng cuộc sống mới, ñấu tranh chống tại Sơn Tây trong một gia ñình quê ở làng Kim Liên, quận Đống Đa, lại bọn thổ ty, chúa ñất và phục vụ kháng chiến. Sau truyện ngắn ñầu Hà Nội. Cuối năm 1954, tình nguyện xung phong lên Lào Cai dạy tay, Phố cụt (1961), người ñọc yêu văn chương biết ñến tên tuổi nhà học, Ma Văn Kháng ñã dâng hiến tuổi trẻ của mình cho vùng ñất biên văn với Xa Phủ (1969), Mùa mận hậu (1972), Bài ca trăng sáng cương của Tổ quốc. Năm 1967, Ma Văn Kháng nhận ñược quyết 9 10 (1974)…ñều lấy mẫu hình và cảm hứng từ cuộc sống và con người truyện Một mình một ngựa (2009), tập truyện ngắn Trốn nợ (2009) và miền biên ải. Hồi kí Ma Văn Kháng (2009). Tuy nhiên, nhìn lại những sáng tác của mình, Ma Văn Kháng Nhìn lại con ñường văn chương Ma Văn Kháng từ khi trở về cho rằng “tất cả chỉ là những bài tập chưa hoàn chỉnh, những truyện Hà Nội, không thể không nói ñến những chuyển biến trong quan ngắn chưa thành ñược viết bằng một cảm quan và trình ñộ thẩm mĩ niệm sáng tác của ông. Mở rộng ñề tài về thế sự - ñời tư, tác phẩm rất ấu trĩ, sơ lược” [31, tr. 186]. Không bằng lòng với chính mình, Ma của Ma Văn Kháng sau 1975 thể hiện cái nhìn ña diện về cuộc ñời và Văn Kháng tìm ñến với tiểu thuyết và Đồng bạc trắng hoa xòe ñã con người. Đời sống “là một kết cấu của cả cái tốt lẫn cái xấu, cái ñược ông khởi thảo vào năm 1972. thiện và cái ác” [23, tr. 201-202]. Con người cũng vậy, bởi vì “ở ñời Cũng trên chặng ñường sáng tác ñầu tiên, thông qua hình có ai chỉ rặt những thói xấu? Cũng chẳng có ai hoàn toàn chỉ có tượng nhân vật, Ma Văn Kháng thể hiện cái nhìn lạc quan của mình những ñức tính tốt. Ai mà chẳng có dăm ba thói tật ñáng phàn nàn” về hiện thực và con người: “Chao! Cuộc sống ñẹp một vẻ ñẹp nguyên [22, tr. 191]. chất không tô vẽ, không cường ñiệu” [6, tr. 866]. Con người “chứa Những thay ñổi trong cái nhìn về hiện thực và con người ñã ñựng sức phấn ñấu mãnh liệt và những nguyện vọng, những niềm vui tạo ảnh hưởng nhất ñịnh ñến sự ñổi mới quan niệm về văn học của sướng giản dị, cao ñẹp xiết bao” [6, tr. 865]. tác giả. Nhà văn ñã thể hiện nhu cầu hướng nội của văn chương một 1.2.2. Chặng ñường sau 1975 cách rõ nét: “…văn chương là chuyện ñời thông qua việc ñào bới bản Những năm ñầu khi mới trở về Hà Nội, Ma Văn Kháng tiếp thể ở chiều sâu tâm hồn, chứ ñâu phải là ñi hót lấy cái váng bọt nổi tục mạch cảm hứng về ñề tài miền núi qua một số truyện ngắn như: trên bề mặt của ngoại vật” [23, tr. 214]. Vệ sĩ của quan châu, Hoa gạo ñỏ…và tiểu thuyết như: Vùng biên ải Từ một người giáo viên tình nguyện suốt một thời tuổi trẻ (1983), Trăng non (1984)… gắn bó với vùng ñất Lào Cai xa xôi của Tổ quốc, Ma Văn Kháng ñã Hành trình sáng tác của Ma Văn Kháng từ khi “xuống núi” trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt phải kể ñến những tác phẩm viết về ñề tài thế sự, ñời tư ở thành thị Nam hiện ñại. Sự chuyển ñổi môi trường hoạt ñộng cùng với sự như các tiểu thuyết: Mùa lá rụng trong vườn (1985), Đám cưới không chuyển hướng trong cảm hứng về con người ñã ñưa ñến những thay có giấy giá thú (1989)… Năm 1986, tập truyện ngắn Ngày ñẹp trời ra ñổi rõ rệt trong thế giới nhân vật của truyện ngắn Ma Văn Kháng. Từ ñời. Từ Ngày ñẹp trời, những vấn ñề của ñời thường trở thành thể tài những nhân vật của núi rừng hoang sơ, người ñọc tiếp xúc với thế xuyên suốt, chủ ñạo trong truyện ngắn Ma Văn Kháng. Có thể kể ñến giới nhân vật của ñồng bằng, thành thị ñầy những phức tạp trong tâm Bồ nông ở biển (1993), Những người ñàn bà (1994), Một chiều dông lí và tính cách. gió (1998)…Gần ñây, tác giả ñã cho xuất bản tiểu thuyết giàu chất tự 11 12 CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỔI BẬT CỦA THẾ GIỚI NHÂN nhân vật ñông ñảo trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975, gắn VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG SAU 1975 liền với những chuyện vặt vãnh hàng ngày. 2.1. Nhìn lại thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng Một ñiều dễ nhận ra là thế giới nhân vật trong truyện ngắn trước 1975 Ma Văn Kháng sau 1975 là những con người vừa gần gũi với ñời Đọc những truyện ngắn của Ma Văn Kháng trước 1975, ta sẽ thực lại vừa mang tâm trạng và số phận riêng. Theo dõi hồi ký của bắt gặp những gương mặt người miền núi giản dị, chất phác, trung Ma Văn Kháng, ta thấy nhiều truyện ngắn ñược viết nên từ những thực, ham hiểu biết, ñầy nhiệt tình cách mạng. Họ có thể còn vương trải nghiệm của nhà văn ở ngoài ñời với những sự việc, con người cụ chút buồn của quá khứ, nhưng mặt trời cách mạng ñã bừng soi giúp thể, như ông Quyết Định và “tôi” trong Một mình một ngựa in ñậm họ nhanh chóng tìm thấy con ñường ñi trong niềm vui trước cuộc ñời dấu ấn của bí thư Trường Minh và bản thân nhà văn ở thời ñiểm làm mới. thư kí cho tỉnh ủy Lào Cai, bà cụ Ninh và Thoa (Bồ nông ở biển) với Đây là kiểu nhân vật sử thi, sống hòa nhập và gắn bó với những mâu thuẫn gay gắt có bóng hình mẹ và vợ của ông trong cộng ñồng. Họ mới ñược chú ý tô ñậm ở nét chung mà còn mờ nhạt ở những ngày tháng khó khăn khi mới trở về Hà Nội… nét riêng, chưa có chiều sâu và bề dày tính cách và số phận. Một số 2.2.2. Các kiểu dạng nhân vật thường gặp nhân vật tiêu biểu như Xa Phủ (Xa Phủ), San Mẩy (Hương thảo quả), Các nhân vật trong thực tiễn văn học rất ña dạng và phức tạp. Tần A San (Bản Miệt yêu thương), Chin (Bài ca trăng sáng)… Vì thế, cách nhận diện, phân chia của chúng tôi dưới ñây cũng chỉ 2.2. Nhận diện thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn mang tính tương ñối. Kháng sau 1975 2.2.2.1. Nhân vật mang vẻ ñẹp truyền thống 2.2.1. Đặc ñiểm chung Trở về thành thị với nguồn cảm hứng sáng tạo mới song thế Có thể bắt gặp trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 giới nhân vật của Ma Văn Kháng vẫn chưa ñứt mạch hoàn toàn với một thế giới nhân vật ña dạng, phong phú. Bên cạnh những gương truyền thống. Vẫn còn ñó những con người biết sống vì tập thể (cả mặt miền núi thuần phác, giờ ñây ñộc giả có dịp gặp gỡ những con trong hiện tại và trong quá khứ ñược hồi tưởng), biết vươn tới cái ñẹp người của ñời sống thành thị phồn tạp. Trong số ñó, có người ñẹp về của cộng ñồng, như Quyết Định (Một mình một ngựa), anh chiến sĩ cả ngoại hình và nhân cách, có kẻ thì xấu xa, thô thiển, vụng về. Thế lái xe người Việt (Chuyến xe ñêm), Lý A Lừ (Hoa gạo ñỏ), Pao (San giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 nhìn chung Cha Chải)… ñược mở rộng ở nhiều kiểu loại. Tầng lớp trí thức vốn ít xuất hiện Vẻ ñẹp truyền thống của nhân vật còn ñược biểu hiện ở ñức trước ñây, nay lại ñược tập trung thể hiện với tất cả sự sâu sắc, nhân tính cần cù, chịu khó, chân thật và giàu lòng tự trọng. Trong số văn và thấp hèn của họ. Đặc biệt, tầng lớp thị dân ñã trở thành những những con người ấy có Giàng Tả (Giàng Tả, kẻ lang thang), Thiều (Anh thợ chữa khóa)… Với những nhân vật phụ nữ, vẻ ñẹp truyền 13 14 thống ñược nhà văn ngợi ca ở ñức tính vừa ñảm ñang, tháo vát lại 2.2.2.3. Nhân vật bi kịch vừa sâu nặng nghĩa tình, như bà cụ Mạ (Người giúp việc), Duyên (Mẹ Nhân vật tồn tại ñan xen trong nó hai hoặc nhiều hoàn cảnh, và con), chị Thảo (Heo may, gió lộng)… tính cách và tâm trạng khác nhau, có khi ñối lập nhau. Và khi những Với việc lưu giữ những hình ảnh truyền thống, Ma Văn mâu thuẫn, xung ñột “không dẫn ñến ñược một giải quyết nào ñó về Kháng muốn thông qua ñó ñể bày tỏ tình thương và niềm tin ñối với tình cảm theo hướng tích cực” [12, tr. 19] thì nhân vật thường rơi vào con người. Dẫu cuộc sống có nhiều ñổi thay thì cái Đẹp vẫn tồn tại bi kịch. mãi. Nhân vật bi kịch thường ñược nhà văn ñặt vào những mối 2.2.2.2. Nhân vật tha hóa quan hệ thân thiết, quen thuộc hàng ngày mà ở ñó ñã bộc lộ những Ma Văn Kháng là nhà văn rất nhạy cảm với những vấn ñề về rạn nứt khó có thể hàn gắn ñược. Đứng trước hoàn cảnh ấy, nhân vật ñạo ñức gia ñình. Những truyện ngắn như Bồ nông ở biển, Thím vốn nhạy cảm và sâu sắc chợt thấy bế tắc, bất lực, cô ñơn. Đó là Hoóng, Đợi chờ… ñã làm người ñọc xót xa về thái ñộ bất hiếu của trường hợp của những người trí thức như Lương (Bồ nông ở biển), con cái với cha mẹ, của người con dâu ñối với mẹ chồng… Đăng (Trái chín cây), Đoan (Heo may, gió lộng)… Bên cạnh sự tha hóa của những người trong gia ñình, truyện Một biểu hiện nổi bật của nhân vật bi kịch ñược nhà văn ngắn Ma Văn Kháng còn ñi sâu phản ánh sự xuống cấp về ñạo ñức quan tâm là tình thế giằng co giữa khát vọng tình yêu và trách nhiệm của một bộ phận trí thức, văn nghệ sĩ trong xã hội. Họ ñã cố tình vi làm mẹ, làm vợ liệt sĩ, làm con dâu… của những người phụ nữ (Qúy phạm ñạo ñức mà không hề ăn năn, thậm chí còn ngang nhiên thực trong Chọn chồng, Duyên trong Mẹ và con), Bừng (Trái chín mùa hiện những hành vi thấp hèn của mình. Tiêu biểu cho hạng người này thu)… là thầy Ngọc Kim (Người ñánh trống trường), nhà báo Bân (Trăng Đối với những người trí thức, người lao ñộng nghèo… Ma soi sân nhỏ), diễn viên Thu Hoài (Anh cả tôi, người sung sướng)… Văn Kháng còn ñề cập ñến bi kịch của họ về nỗi buồn nhân thế khi Không dừng lại ở sự tha hóa của những trí thức, nghệ sĩ, cái ñẹp tàn phai, bị bỏ quên, bị phản bội hoặc bị hủy diệt. Có thể bắt truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 còn ñề cập ñến tình trạng “ăn gặp ñiều này ở bà Huyền (Tóc Huyền màu bạc trắng), Thiều (Anh thợ cháo ñá bát” của những kẻ một thời ñã từng ñược người khác yêu chữa khóa)… thương, cưu mang, ñùm bọc như cái Tý Ngọ trong truyện cùng tên, Ma Văn Kháng ñã cố gắng lí giải những nguyên nhân khác Văn Rương và Bật trong Một mình một ngựa… nhau dẫn ñến tình trạng bi kịch của con người nhưng ñiều chủ yếu Viết về tình trạng suy ñồi ñạo ñức của nhân vật, Ma Văn mà nhà văn muốn khẳng ñịnh là: Con người không làm chủ ñược Kháng ñồng thời thể hiện nỗi buồn mênh mông trước nhân thế ñang mình, trở thành nạn nhân của chính mình, nạn nhân của những chấn phai lạt nhân tình. ñộng xã hội bởi “số phận con người thật là mong manh” [25, tr. 99]. 15 16 2.2.2.4. Nhân vật bản năng 2.2.2.5. Nhân vật tâm linh, vô thức “Bản lĩnh của một con người là sự tổng hòa lý trí với bản Nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 không năng” [23, tr. 301]. Vì thế, nhân vật của Ma Văn Kháng sống thật với chỉ sống với lí trí mà còn sống với những linh tính, những niềm tin có những gì vốn có, với những vui - buồn, tốt - xấu, ñau khổ - hạnh phần mù quáng mang tín ngưỡng của cả cộng ñồng, như tin vào tử vi, phúc… tướng số: thầy giáo Đức (Mảnh ñạn), ông Nhân (Đợi chờ), chị Tươi Đối với những truyện ngắn về ñề tài miền núi, ông ñi sâu (Những người ñàn bà)… Đề cập ñến vấn ñề này, nhà văn cho thấy cả trước hết vào “bản năng bán khai” của những kẻ mông muội, thú tính những vẻ ñẹp và sự phiền toái mà nó gây ra cho con người. Nhân vật như Khun (Vệ sĩ của quan châu) hay ngu xuẩn, ñần ñộn như Mã Đại tâm linh trong truyện ngắn Ma Văn Kháng còn là những con người ở Câu (Mã Đại Câu, người quét chợ Mường Cang)… cõi dương nhưng có khả năng giao cảm ñặc biệt với cõi âm, như Quan tâm ñến con người bản năng, Ma Văn Kháng ñặc biệt người chị cả và ñứa bé gái có bố chết trận trong Thanh minh trời chú ý ñến nhu cầu tính dục của họ. Bản năng tình ái của những nhân trong sáng. Đôi khi, yếu tố tâm linh có quyền lực riêng của nó, giúp vật ñàn bà là một dòng chảy “thầm thào” nhưng “dào dạt vô cùng” con người có khả năng ñoán trước những ñiều sắp xảy ra theo quan (bà Tài, mụ Chí, cô Thơ trong Những người ñàn bà). Được sống thật niệm duy tâm, như linh cảm về sự hư hỏng của ñứa con gái ngay từ với lòng mình, người phụ nữ ñồng thời thể hiện tính “lưỡng phân” lúc nó còn thơ ấu của bà Nhân (Đợi chờ), Nhiên (Thanh minh trời khi bày tỏ khát vọng tình yêu. Họ “vừa sợ ñàn ông vừa cần ñàn ông”, trong sáng) linh tính sẽ có ñiều chẳng lành xảy ra với chồng sau ngày “rất muốn lấy chồng, nhưng là lại hết sức ngại ngần” như tâm trạng ñám cưới… chị Thiên của tôi, Qúy, Duyên… Đọc Ma Văn Kháng, có thể nhận ra Một yếu tố rất nổi bật trong thế giới vô thức của con người sự chi phối mạnh mẽ của lòng ñắm dục tới ñàn ông và quyền lực. mà Ma Văn Kháng thường nhắc ñến là giấc mơ. Nhân vật trong Những người ñàn ông sẵn sàng ñầu ñộc vợ hay tự hủy hoại sự nghiệp truyện ngắn Ma Văn Kháng ñã trút bỏ những căng thẳng nhờ vào của mình ñể ñược chiếm lĩnh “nhan sắc ñàn bà” như Trần Quàn những giấc mơ. Và giấc mơ bao giờ cũng chất chứa những uẩn khúc (Người bị ruồng bỏ), ông Lương (Nhan sắc ñàn bà)… Những trang của từng cá nhân. Có giấc mơ ñến ñể giúp con người thỏa mãn văn của Ma Văn Kháng quả là táo bạo khi thể hiện ham muốn bản những ham muốn như giấc mơ tình ái của Qúy (Chọn chồng). Và năng không thể dập tắt của những nhân vật ñã ở vào ñộ tuổi lên lão. cũng có giấc mơ không chỉ khởi phát từ những ám ảnh tâm lí mà sự Đó là thổ ty Sề Sào Lỉn (Móng vuốt thời gian), lão Siển (Lão Siển)… xuất hiện của nó, vô tình còn làm cho con người thêm lo âu, day dứt, Bản năng bao giờ cũng có cả mặt tích cực và hạn chế, cái cao thậm chí khủng hoảng tinh thần, như giấc mơ của bà mẹ Lương (Bồ cả và cái thấp hèn. Nhà văn chỉ ra cả những khoái lạc và bệnh hoạn, nông ở biển). sức mạnh và sự sa sút của con người trong cuộc hành trình ñi tìm bản Tiếp cận cõi bí ẩn ngoài vùng ý thức, Ma Văn Kháng ñã ñem thể của mình. ñến cái nhìn nhân bản về con người. Khi cuộc sống còn nhiều ñau 17 18 khổ, bất trắc, con người càng tìm ñến tâm linh ñể giải thoát cho tâm múa)… ñều là những mẫu ñàn bà ñẹp “từ hình tích ñến nét mặt, khóe hồn mình. Nhà văn trân trọng, nâng niu những gì thuộc về con người môi, vồng ngực”[24, tr. 195]… nhưng cũng cảnh tỉnh con người ñừng quá lạc vào cõi mê. Thành công tiếp ñến của truyện ngắn Ma Văn Kháng khi thể hiện nhân vật phải kể ñến những chi tiết miêu tả tâm lí. Tâm lí nhân CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN THẾ GIỚI NHÂN vật ñược nhà văn soi chiếu từ những xao ñộng nội tâm, những ẩn ức VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG SAU 1975 mà con người khó giãi bày. Nếu tiếng khóc và những giọt nước mắt 3.1. Thể hiện thế giới nhân vật qua chi tiết ñã phần nào giúp nhân vật giải tỏa ẩn ức thì nỗi nhớ là dòng tâm tư 3.1.1. Chi tiết miêu tả ngoại hình và tâm lí mà nhân vật của Ma Văn Kháng thường bộc lộ trước tình huống ñáng Sau 1975, ngoại hình nhân vật ñược Ma Văn Kháng chủ tâm buồn của hiện tại, như bi kịch về gia ñình hay tình yêu – tuổi trẻ - miêu tả nhiều hơn so với trước (chúng tôi thống kê 108 truyện thì có hạnh phúc… Tâm lí nhân vật ñược nhà văn miêu tả khá sâu sắc ở tới 105 truyện sử dụng chi tiết này với những mức ñộ ñậm nhạt khác Lương (Bồ nông ở biển), Nam (Trăng soi sân nhỏ), Hồng (Một mình nhau), cách miêu tả của nhà văn cũng ña dạng và thể hiện rõ hơn ñi trong mưa)… chân dung nhiều loại nhân vật. Miêu tả ngoại hình và tâm lí là những phương cách vừa quen Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 thuộc vừa mới mẻ ñể Ma Văn Kháng không chỉ thể hiện thái ñộ, tình ñược hiện ra trong những chân dung sinh ñộng, riêng biệt, phản ánh cảm của mình với nhân vật mà còn ñi sâu phản ánh tính chất ña diện, dòng giống và ñời sống người ñó. Nét ngoại hình của nhân vật luôn phức tạp của con người. phù hợp với phẩm chất, tính cách. Những nhân vật phản diện, tha 3.1.2. Chi tiết miêu tả thiên nhiên hóa, lưu manh… bao giờ cũng có hình dạng xấu xí như cái Tý Ngọ Thiên nhiên ñã trở thành một vùng không gian nghệ thuật, ở trong truyện cùng tên, lão Lực (Nợ ñời), lão Siển (Lão Siển)…Tuy ñó nhân vật của Ma Văn Kháng có dịp soi chiếu ñời sống nội tâm nhiên, bên cạnh những chân dung xấu xí, ta còn bắt gặp nhiều con phong phú và phức tạp. người ñáng yêu, ñáng mến cho dù họ là người trí thức hay người lao Sau 1975, thiên nhiên trong truyện ngắn Ma Văn Kháng ñộng nghèo khổ: Chính (Anh cả tôi, người sung sướng), Đức (Một phong phú, ña dạng về hình thức biểu hiện và sắc thái thẩm mĩ: mang mối tình si), chị Thảo (Heo may, gió lộng)… màu sắc triết lí và ñậm ñà “chất người”, chất cảm xúc hơn. Một nét mới của nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng Trước hết là hình ảnh của mưa với nhiều sắc thái khác nhau, so với trước 1975 về mặt ngoại hình là chất phồn thực tỏa ra từ hình làm thức dậy ở nhân vật nhiều xúc cảm về xung quanh và bản thể. tượng các nhân vật nữ. Tính chất phồn thực ấy chủ yếu xuất phát từ Trung du chiều mưa buồn ñọng lại bao nỗi xót xa về thân phận cô ñôi mắt, ñộ tuổi và sức xuân toát ra từ cơ thể. Seo Ly (Seo Ly, kẻ Bịu và sự thờ ơ, lạnh lùng của người chị gái. Cơn mưa của Một chiều khuấy ñộng tình trường), Hoan (Thầy dạy tư), Nhiên (Nhiên, nghệ sĩ dông gió ñã ñánh thức ở Tua và ñám thợ thuyền trai trẻ lam lũ cái 19 20 bản năng dục tình mà bấy lâu nay họ bị phong bế. Cơn mưa ñã trở 3.2. Thể hiện thế giới nhân vật qua ngôn ngữ thành cơn khát làm sống dậy những ñam mê rất ñỗi trần thế của con 3.2.1. Ngôn ngữ người trần thuật người, và con người “biến thành kẻ khác với chính nó”[24, tr. 280]. Theo thống kê của chúng tôi, trong số 108 truyện ngắn của Cùng với mưa, ánh mặt trời, mùa thu trong sáng với ngọn gió Ma Văn Kháng, có 39 truyện ñược trần thuật theo ngôi thứ nhất heo may, một vầng nắng nhỏ, một ngõ nhỏ tràn ánh trăng…cũng là (chiếm 36 %). Người kể chuyện xưng “tôi” thường thể hiện sự ñánh những chi tiết ñặc sắc ñược nhà văn chú ý tô ñậm nhằm thể hiện cảm giá nhân vật một cách trực tiếp, vừa chủ quan vừa khách quan như xúc phong phú của nhân vật (“tôi” trong Một vầng nắng nhỏ, Thụy cái nhìn ñối với thầy Huân (Người ñánh trống trường), bà cụ Mạ trong Trái chín mùa thu)… (Người giúp việc)… Không chỉ có ngôn ngữ người kể chuyện xưng 3.1.3. Chi tiết miêu tả yếu tố tính dục “tôi”, với 69/108 truyện ñược trần thuật theo ngôi thứ ba (chiếm 64 Ta bắt gặp trong nhiều truyện ngắn, Ma Văn Kháng không %), có thể thấy rằng, Ma Văn Kháng chủ yếu vận dụng ngôn ngữ của chỉ miêu tả vẻ ñẹp phồn thực của những người ñàn bà mà cả những người kể chuyện giấu mặt ñể thể hiện nhân vật. Lối trần thuật này sẽ cuộc ái ân, làm tình của những người khác giới nhằm thỏa mãn nhu giúp nhà văn phản ánh ñời sống một cách chân thực, rõ nét, tính cầu khoái cảm về xác thịt. Bên cạnh “cái ái tình cao thượng”, thể hiện khách quan ñậm hơn. sự hòa ñiệu của hai xác thịt và tâm hồn, Ma Văn Kháng còn miêu tả Theo dõi ngôn ngữ người trần thuật trong truyện ngắn Ma “cái ái tình thế phàm” là những khát vọng bản năng ñòi ñược thỏa Văn Kháng sau 1975, chúng tôi nhận thấy người kể chuyện ñã có sự mãn về mặt thân xác. Có cảm giác ñắm say trong tình yêu thực sự di chuyển ñiểm nhìn trần thuật ñến nhân vật, tạo nên lời nửa trực tiếp. của Qúy và Tốn (Chọn chồng) và có cả mối giao hợp ñược kể một Điều này vừa giúp người ñọc soi tỏ ý nghĩ thầm kín của nhân vật, cách tự nhiên ñến thô thiển, thiếu văn hóa, như sự “hiện diện trần vừa cho thấy ñiểm nhìn của người trần thuật. Ví dụ như lời nửa trực truồng” của Hải và Thu Hoài (Anh cả tôi, người sung sướng) hay tiếp góp phần diễn tả tâm lí giằng xé, bi kịch trong tâm hồn Duyên cách làm tình của Đoàn với Nhường trong Nhan sắc ñàn bà. (Mẹ và con) và bộc lộ những suy tư về cuộc ñời, như quan niệm về Nếu như tình dục lành mạnh xuất phát từ tình yêu sẽ làm tâm hạnh phúc của lão Chư (Người thợ bạc ở phố cũ). hồn con người ta ñẹp lên và ñáng yêu hơn thì những mối quan hệ Làm nên tính sinh ñộng của ngôn ngữ trần thuật khi thể hiện thân xác không lành mạnh là “căn bệnh vô phương cứu chữa”, làm nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 phải kể ñến vai cho con người ta sa sút về thể chất lẫn tâm hồn. Chẳng hạn như trò của những lời trữ tình ngoại ñề. Có thể nói, lời trữ tình ngoại ñề trường hợp của Trần Quàn (Người bị ruồng bỏ), lão Siển (Lão thể hiện rõ nhất và trực tiếp nhất thái ñộ, tình cảm ñối với con người Siển)… Mặc dù vậy, ngay cả khi miêu tả những hành vi tình dục thô và cuộc ñời của nhà văn. Tuy nhiên, lối trần thuật “biết tất”, “biết bạo, tác giả cũng khẳng ñịnh sức hấp dẫn kì lạ của nó ñối với con hết” về nhân vật cũng là một hạn chế của ngôn từ Ma Văn Kháng người.

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net