Luận văn triết học-quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người việt

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Luận văn triết học-quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người việt

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ BÍCH Quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt LUẬN VĂN THẠC SĨ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Người hướng dẫn: GS.TS. NGUYỄN HỮU VUI HÀ NỘI – 2003 1 MỤC LỤC Trang Mục lục 1 PHẦN MỞ ĐẦU 2 Chƣơng 1: Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt và khía cạnh nhân sinh của nó 6 1.1. Tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên 6 1.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 16 1.3. Một số khía cạnh nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 34 Chƣơng 2 : Quan niệm về nhân sinh trong tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt hiện nay- thực trạng và giải pháp 56 2.1.Thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay- nhìn từ góc độ nhân sinh 56 2.2. Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của quan niệm nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay 75 PHẦN KẾT LUẬN 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Thờ cúng tổ tiên là một hiện tượng xã hội đã xuất hiện từ xa xưa của lịch sử nhân loại và đã tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới. Cho đến nay, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của nhiều tộc người. Nhưng sự đánh giá ý nghĩa, vai trò của nó trong từng giai đoạn lịch sử và ở mỗi quốc gia lại rất khác nhau. Ở Việt Nam, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng dân gian phổ biến. Nó phản ánh rõ nét đặc trưng của văn hoá dân gian, thấm đượm đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, hướng vào việc củng cố và tăng cường ý thức cộng đồng. Nhưng bản thân hình thức tín ngưỡng này cũng tiềm tàng những yếu tố dẫn đến hiện tượng mê tín dị đoan, những hủ tục gây tổn hại về tiền của, sức khoẻ, tính mạng của nhân dân. Nó là vấn đề phức tạp và nhạy cảm, dễ bị các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, làm tổn hại đến an ninh chính trị- xã hội và sự phát triển của đất nước. Vừa qua, Nghị quyết Hội nghị TW Bẩy (khoá IX) về công tác tôn giáo, đã xem việc “giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh và nhớ ơn những người có công với Tổ quốc, dân tộc và nhân dân” là một bộ phận quan trọng trong hệ quan điểm chỉ đạo của Đảng trên lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng [17,52]. Vì vậy, nhận thức đúng đắn về tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đặc biệt, quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là vấn đề mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhằm góp phần làm lành mạnh hoá các hoạt động tín ngưỡng, hướng vào các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, góp phần thực hiện thắng lợi cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” do Nhà nước phát động theo tinh thần Nghị quyết 3 TW Năm (khoá VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp thiết trên, tôi đã chọn vấn đề "Quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học triết học, chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS. 2- TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Vấn đề tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu, như : “Các hình thức tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng” của Tô-ca-rev (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994); “Nếp cũ- tín ngưỡng Việt Nam” (quyển thượng) của Toan Ánh (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1997); “Việt Nam phong tục” của Phan Kế Bính (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 1995); “Các hình thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy (Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội 2001); “Thờ thần ở Việt Nam” của Lê Xuân Quang (Nxb Hải Phòng 1996); “ Về tôn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện nay” của Đặng Nghiêm Vạn chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1996; “Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay” của Trần Đăng Sinh, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội 2002; “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” của Vũ Ngọc Khánh, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội 2001... Ngoài ra, còn nhiều bài viết công bố trên báo và tạp chí, như: Tạp chí Triết học, Cộng sản, Nghiên cứu lý luận, Thông tin lý luận, Tư tưởng văn hoá, Văn hoá nghệ thuật, Dân tộc học, Xưa và nay... của nhiều tác giả như Nguyễn Hữu Vui, Ngô Hữu Thảo, Nguyễn Đức Lữ, Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Tài Thư... Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập dưới các góc độ khác nhau về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt là vấn đề phức tạp, khó khăn, cần tiếp tục được nghiên 4 cứu. Mặt khác, dưới góc độ triết học, chưa có một tác giả nào bàn sâu vấn đề quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Vì vậy, tôi mạnh dạn đi sâu khai thác vấn đề này trong luận văn. 3- MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN Mục đích : Bước đầu nghiên cứu và trình bày những quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Thông qua việc khảo sát thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những yếu tố tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực của quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, góp phần xây dựng nền văn hoá mới ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ : Để hoàn thành được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Làm rõ nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Trình bày những quan niệm về nhân sinh qua nội dung, nghi lễ thờ cúng tổ tiên của người Việt. - Từ thực trạng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay, rút ra một cách khái quát mặt tích cực và mặt tiêu cực, đề xuất những giải pháp chủ yếu để góp phần định hướng đúng đắn quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay. 4- ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng: Quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. Phạm vi nghiên cứu : Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt trong lịch sử và đánh giá thực trạng từ năm 1986 đến nay. 5- CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước ta về tín ngưỡng, tôn giáo. 5 Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là chính; ngoài ra, còn vận dụng các phương pháp khác, như : phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, so sánh... 6- NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Luận văn góp phần trình bày một số khía cạnh về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt, từ thực trạng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm từng bước phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực của quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cho phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 7. Ý NGHĨA CỦA LUẬN VĂN Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, góp phần định hướng đúng đắn quan niệm về nhân sinh trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tôn giáo học... trong các trường đại học và cao đẳng. 8- KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. 6 CHƢƠNG I TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƢỜI VIỆT VÀ KHÍA CẠNH NHÂN SINH CỦA NÓ 1.1- TÍN NGƢỠNG, TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN 1.1.1- Tín ngưỡng Trong lịch sử phát triển của nhân loại có hàng ngàn các loại hình tín ngưỡng khác nhau, rất phong phú, đa dạng. Song, để có một cách hiểu khoa học về tín ngưỡng, cần phải xem xét một số quan điểm khác nhau trong giới nghiên cứu để có thể đi đến khái quát được nét đặc trưng nhất của tín ngưỡng. Các quan điểm ngoài mác-xít về tín ngưỡng Chủ nghĩa duy tâm khách quan với đại biểu như Pla-tôn, Hê-ghen ... đã xuất phát từ thực thể tinh thần, “ý niệm”, “ý niệm tuyệt đối” để lý giải các hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng. Hê-ghen cho rằng, khởi nguyên của thế giới là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới ”. Tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của “ý niệm tuyệt đối”. “Ý niệm tuyệt đối” tồn tại vĩnh viễn. Theo nhận xét của Lê-nin, “ý niệm tuyệt đối” chỉ là một cách nói theo đường vòng, một cách nói khác về Thượng đế mà thôi. Do đó, quan điểm của các nhà triết học duy tâm là sự biện hộ cho tín ngưỡng, tôn giáo, họ xem tín ngưỡng, tôn giáo là sức mạnh thần bí thuộc tinh thần tồn tại vĩnh hằng, là nhân tố chủ yếu đem lại sinh khí cho con người. 7 Các nhà triết học duy tâm chủ quan lại cho rằng, tín ngưỡng là thuộc tính vốn có trong ý thức của con người, tồn tại không phụ thuộc vào hiện thực khách quan. Các nhà triết học duy vật lại có quan điểm hoàn toàn khác với quan điểm duy tâm. Xê-nô-phan, nhà triết học duy vật cổ đại, cho rằng thần do con người tạo ra, vì thế, con người như thế nào thì thần giống như thế. Còn đại biểu kiệt xuất của nền triết học cổ điển Đức, Phoi-ơ-bắc, lại khẳng định: “Không phải như trong Kinh thánh nói Thượng đế tạo ra con người theo hình ảnh của mình mà là con người tạo ra Thượng đế theo hình ảnh của họ[37,23]. Trong tác phẩm “Bản chất của Kitô giáo”, Phoi-ơ-bắc chứng minh rằng, hiểu một cách nhân bản, cái mà ý thức tín ngưỡng, tôn giáo quan niệm là Thượng đế không phải cái gì khác hơn sự “phóng rọi” của chính bản thân con người, với tư cách là loài, và được thể hiện bằng tư duy, bằng mong muốn, bằng cảm xúc. Ông viết: Con người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào, thì Thượng đế của họ đúng như vậy; con người có bao nhiêu giá trị thì Thượng đế của họ cũng chỉ có bấy nhiêu, không hơn. Ý thức về Thượng đế là sự tự ý thức của con người, sự nhận thức Thượng đế là sự nhận thức của con người. Từ Thượng đế có thể suy ra con người, và từ con người có thể suy ra Thượng đế của họ, hai thứ chỉ là một. Cái mà con người cho là Thượng đế, đấy chính là tinh thần, là tâm hồn của con người và cái gọi là tinh thần, là tâm hồn, trái tim của con người, đấy chính là Thượng đế ... [38,103]. Như vậy, con người đã phản ánh bản chất thật của mình vào Thượng đế. Sau khi đã thực hiện việc đó, Thượng đế không còn đồng nhất tuyệt đối với bản chất con người nữa. Ở đây, Thượng đế trở thành một khách thể của con người, thành một cái nằm ngoài con người, và đến lượt mình, con người 8 nhắm mắt phục tùng cái Thượng đế do họ đã sinh ra với một tinh thần hoàn toàn thụ động. Khác với Hê-ghen, nói đến sự tha hoá của “ý niệm tuyệt đối”, Phoi- ơ- bắc nói đến sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông cho rằng, bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện, cái đẹp, nghĩa là muốn hướng tới những giá trị đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong thực tế, những cái đó con người không đạt được, nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của mình vào hình tượng Thượng đế. Nhìn chung, các quan điểm trên về tín ngưỡng do điều kiện lịch sử và do lợi ích giai cấp đã có những hạn chế, thiếu cơ sở khoa học. Quan điểm duy tâm cho tín ngưỡng là những hiện tượng thần bí, siêu thực, chỉ có thể cảm nhận và tin chứ không lý giải được. Các nhà triết học duy tâm đã sai lầm, vì họ đã lấy ý thức, tinh thần để lý giải một hiện tượng cũng thuộc lĩnh vực tinh thần là tín ngưỡng, tôn giáo. Quan điểm duy vật của Phoi-ơ-bắc đã chỉ ra nguồn gốc nhận thức của tín ngưỡng, tôn giáo, góp phần đấu tranh chống các quan điểm duy tâm, tôn giáo trong quan niệm về con người, về Thượng đế. Song, trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, Phoi-ơ-bắc chỉ phê phán một thứ tôn giáo cụ thể là đạo Cơ Đốc. Còn tôn giáo nói chung, theo ông, vẫn là điều cần thiết đối với cuộc sống con người, chỉ có tín ngưỡng, niềm tin mới an ủi được chúng ta khỏi những nỗi bất hạnh trong cuộc đời con người. Mặc dù sự an ủi đó là giả dối, là không có thật, nhưng theo ông, không thể làm gì hơn, mà đành phải chấp nhận. Phoi- ơ- bắc chưa chỉ ra được nguồn gốc xã hội, chức năng “đền bù hư ảo” và những mặt tiêu cực của tôn giáo, tín ngưỡng. Vì vậy, ông đã rơi vào lập trường duy tâm trong việc lý giải vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng. 9 Để có cách nhìn khách quan, khoa học đối với hiện tượng tín ngưỡng, cần có phương pháp tiếp cận khoa học, đó là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin Quan điểm triết học mác- xít về tín ngưỡng C. Mác khẳng định con người đã sáng tạo ra tín ngưỡng, tôn giáo chứ không phải chỉ sáng tạo ra biểu tượng của tín ngưỡng, tôn giáo như các nhà duy vật trước Mác đã thừa nhận. Tín ngưỡng, về bản chất, là sản phẩm của con người sống trong những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá cụ thể nào đó. Tín ngưỡng thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự qui định của tồn tại xã hội. Chính con người đã thần thánh hoá, khoác cho thần thánh những sức mạnh siêu nhiên, tạo thành cái bản chất khác mình và trở thành chỗ dựa cho chính mình.Vì vậy, Mác cho rằng, cần phải “xuất phát từ con người trong hành động, hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình ấy” [33, 37- 38]. Trong quá trình hoạt động của mình, C. Mác và Ph. Ăng- ghen đã chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành và phát triển của các hiện tượng mang tính chất lịch sử xã hội, trong đó có tín ngưỡng, tôn giáo. Thời đại C. Mác, Ph.Ăng-ghen sống, trong xã hội phương Tây, tín ngưỡng thường được hiểu là tín ngưỡng tôn giáo, và cụ thể là tín ngưỡng Cơ Đốc giáo. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, C.Mác, Ph. Ăng-ghen đã đề cập tới vấn đề tín ngưỡng tôn giáo ở nhiều khía cạnh khác nhau, trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau, với các khái niệm tín ngưỡng, tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng Cơ Đốc giáo. Các ông cho rằng, về cơ bản, tín ngưỡng không khác gì thần linh, hai cái đều là tôn giáo đang ngự trị con người. Ở đây, tín ngưỡng với hàm nghĩa tín ngưỡng tôn giáo [42,9]. 10 Song, C. Mác, Ph. Ăng- ghen không dừng lại xem xét tín ngưỡng với hàm nghĩa tín ngưỡng tôn giáo, các ông còn sử dụng khái niệm “tín ngưỡng triết học” và “tín ngưỡng chính trị”. Trong quá trình sử dụng khái niệm “tín ngưỡng”, dần dần C.Mác, Ph. Ăng-ghen đã phá vỡ cách dùng quen thuộc với hàm nghĩa “tín ngưỡng tôn giáo”. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gô-ta”, C.Mác cho tự do tín ngưỡng của giai cấp tư sản chẳng qua chỉ là các loại tự do tín ngưỡng tôn giáo. Chính đảng của giai cấp công nhân muốn giải thoát con người ra khỏi cái ma thuật của tín ngưỡng tôn giáo. Vì vậy, C.Mác, Ph. Ăng-ghen đã khẳng định, tự do tín ngưỡng có nội dung rất rộng lớn. Người ta không chỉ có tự do tín ngưỡng của tôn giáo này hay tôn giáo khác, mà còn có tự do tín ngưỡng không tôn giáo, nghĩa là tự do tín ngưỡng vô thần. Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin chính là niềm tin của giai cấp vô sản, là niềm tin khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân bị áp bức. Trong thực tiễn đấu tranh cách mạng, C.Mác, Ph.Ăng-ghen cho rằng : “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi là chủ nghĩa cộng sản là phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay”[33, 51]. Theo C.Mác, vấn đề là ở chỗ phải tổ chức, giáo dục giai cấp vô sản, làm cho họ có niềm tin vững chắc vào tương lai của xã hội mới do chính họ tạo lên. Thực tế, đây chính là hình thức đi sâu vào lòng người, trở thành lý tưởng và niềm tin của chủ nghĩa cộng sản. Nếu các nhà triết học duy tâm lấy ý thức, tín ngưỡng tôn giáo để giải thích lịch sử, coi tín ngưỡng, tôn giáo là phạm trù vượt qua lịch sử, lấy sự thay đổi của tín ngưỡng, tôn giáo để phân định lịch sử nhân loại, thì các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã lấy lịch sử để giải thích tín ngưỡng và đi đến kết luận khoa học: Tín ngưỡng cũng là một hiện tượng lịch sử, là sự phản ánh 11 điều kiện kinh tế-xã hội của các thời đại, có quá trình hình thành, biến đổi và có ảnh hưởng nhất định đối với tiến trình lịch sử. Cùng với việc nghiên cứu quan điểm của các nhà kinh điển, cũng cần xem xét các quan điểm của một số học giả Việt Nam về tín ngưỡng. Từ điển tiếng Việt xác định: Tín ngưỡng là “sự tin tưởng vào sức mạnh của một đấng thiêng liêng và những giáo lý của một tôn giáo” [57, 823]. Đặng Nghiêm Vạn xem tín ngưỡng là một yếu tố chính của tôn giáo, qui định sức mạnh của tôn giáo với cộng đồng [62]. Ngô Hữu Thảo, trong bài “Góp phần tìm hiểu các khái niệm tôn giáo và tín ngưỡng” cho rằng : Tín ngưỡng được hiểu theo hai cách : cách hiểu thứ nhất, tín ngưỡng là một động từ hoặc một động ngữ (khái niệm tôn giáo không hiểu theo cách này mà chỉ là danh từ). Với nghĩa thứ nhất này, tín ngưỡng là tin theo một tôn giáo nào đó. Cách hiểu thứ hai, tín ngưỡng là một danh từ (cách hiểu này rất ít được bàn đến), nên phải dựa vào thực tiễn để tìm hiểu về nó. Muốn vậy, cần dùng phương pháp phân loại các hiện tượng trong đời sống tâm linh để xem hiện tượng nào không phải là tôn giáo, không phải là mê tín dị đoan (tương đối) ... thì có thể xem đó là hiện tượng tín ngưỡng. Từ phương pháp đó, tác giả chỉ ra một số đặc trưng của hiện tượng tín ngưỡng là : 1- Niềm tin và việc thờ cúng không có sự đối lập tuyệt đối giữa cõi trần và siêu trần thế, vừa là sự tôn thờ, vừa là thái độ biết ơn đối với chế độ và thế hệ trước. 2- Thể hiện đạo lý, sắc thái dân tộc, đóng góp vào việc bảo lưu truyền thống văn hoá cộng đồng, dân tộc. 12 3- Có sự dung hoà, đan xen, hoà quyện với các tín ngưỡng, tôn giáo khác, thậm chí với cả những hiện tượng tâm linh phản văn hoá[48, 42]. Các nhà nghiên cứu như Toan Ánh, Phan Kế Bính từ giác độ văn hoá dân gian, xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các lễ nghi thờ cúng thể hiện qua lễ hội, phong tục tập quán, truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trần Đăng Sinh lại đi sâu phân tích khái niệm tín ngưỡng trên cơ sở năm đặc trưng: 1) Xem xét tín ngưỡng gắn với đời sống tinh thần nói chung. 2) Xem xét tín ngưỡng như là kết quả của sự hình thành và phát triển các quan hệ xã hội, có tác động trở lại các quan hệ đó. 3) Xem xét tín ngưỡng như là phương thức biểu hiện niềm tin của con người vào cái thiêng liêng, biểu hiện sự bất lực của họ trước sức mạnh thống trị của lực lượng tự nhiên và xã hội. 4) Xem xét tín ngưỡng như một hiện tượng lịch sử- văn hoá có qui luật hình thành và vận động, biến đổi riêng. 5) Xem tín ngưỡng như là một bộ phận của ý thức xã hội trong quan hệ với tôn giáo, văn hoá, ngôn ngữ, triết học, lịch sử, nghệ thuật, khoa học. Sự tổng hợp, đan xen của năm đặc trưng trên tạo thành lát cắt bởi điểm giao nhau nói lên đặc trưng chung nhất của tín ngưỡng[45,32-33]. Tín ngưỡng, theo cách hiểu thông thường, là tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, tín ngưỡng và tôn giáo về nội dung và hình thức phản ánh, tuy có sự tương đồng, song cũng có sự khác biệt. Sự tương đồng biểu hiện ở chỗ : 1- Tín ngưỡng và tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đều là sự phản ánh hư ảo tồn tại xã hội, thể hiện sự bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tín ngưỡng và tôn giáo đều có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc nhận 13 thức và nguồn gốc tâm lý trong quá trình hình thành và tồn tại; đều có chức năng đền bù hư ảo, xoa dịu nỗi đau hiện thực và hướng con người tới sự giải thoát về tinh thần. 2- Tín ngưỡng và tôn giáo đều là sự thể hiện niềm tin, sự ngưỡng mộ của con người vào một thực thể siêu việt nào đó như Thượng đế, Thần, Phật, Tổ tiên... Tuỳ thuộc vào khả năng và trình độ nhận thức mà niềm tin và tôn giáo được thể hiện khác nhau. Vì vậy, niềm tin vào đấng thiêng liêng là hạt nhân của tín ngưỡng và tôn giáo. 3- Tín ngưỡng và tôn giáo đều có hệ thống lễ nghi là hình thức, phương tiện để hiện thực hoá ý thức, niềm tin tôn giáo. Bên cạnh những yếu tố tương đồng, giữa tín ngưỡng và tôn giáo có những điểm khác biệt nhất định: 1- Tín ngưỡng, xét theo nghĩa rộng là khái niệm rộng hơn tôn giáo. Bất kỳ tôn giáo nào cũng đều là tín ngưỡng, nhưng không phải mọi hình thức tín ngưỡng đều là tôn giáo. 2- Tín ngưỡng được hình thành từ cuộc sống phong phú, đa dạng, chủ yếu do cảm xúc, kinh nghiệm mang lại. Tín ngưỡng thường mang tính dân gian; phản ánh thiếu sự khái quát và thiếu cơ sở lý luận chặt chẽ. Còn tôn giáo thường được hình thành và tồn tại trên cơ sở lý luận chặt chẽ, có cơ sở thế giới quan là chủ nghĩa duy tâm. 3- Tín ngưỡng có kết cấu đơn giản, nó hình thành và tồn tại dựa trên cơ sở niềm tin vào các phép lạ, thần linh, tổ tiên, còn tôn giáo có kết cấu phức tạp. Các yếu tố lễ nghi được thực hiện trong tín ngưỡng mang tính đơn giản; còn với tôn giáo nghi lễ được đặc biệt coi trọng, nó mang tính hệ thống. Căn cứ vào quan điểm của các nhà kinh điển, các nhà nghiên cứu, căn cứ vào đặc trưng cơ bản của tín ngưỡng trên cơ sở phân biệt sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo, có thể quan niệm : tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là sản phẩm của các quan hệ xã hội được 14 hình thành trong quá trình lịch sử, là niềm tin của con người đối với cái thiêng liêng. Nó thể hiện tính chất phong phú, song cũng rất đặc thù trong sinh hoạt văn hoá truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và của mỗi cá nhân . Cùng với khái niệm tín ngưỡng, tác giả luận văn xem xét khái niệm thờ cúng tổ tiên 1.1.2- Thờ cúng tổ tiên Tổ tiên, theo Từ điển Tiếng Việt do Trung tâm từ điển học xuất bản, là: “Tổng thể nói chung những người coi là thuộc thế hệ đầu tiên, qua đời đã lâu, của một dòng họ hay một dân tộc trong mối quan hệ với các thế hệ về sau này” [58,973]. Khái niệm tổ tiên có thể tiếp cận ở giác độ rộng, hẹp khác nhau. Theo nghĩa hẹp, Trần Đăng Sinh cho tổ tiên là khái niệm chỉ những người có cùng huyết thống, đã mất như kỵ, cụ, ông, bà, cha, mẹ... là những người có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng to lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của các thế hệ con cháu [45,33-34]. Tổ tiên trong xã hội nguyên thuỷ là tổ tiên tô tem giáo của thị tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tô tem giáo ra đời rất sớm. Các thị tộc mẫu hệ thường tôn sùng một biểu tượng tô tem như tổ tiên của mình, đó có thể là biểu tượng thực vật, động vật (phần lớn là một loài vật nào đó) hoặc nửa người nửa vật được thần thánh hoá. Thời kỳ thị tộc phụ hệ, tổ tiên là những người đứng đầu thị tộc đầy quyền uy, khi mất đi, họ trở thành thần che chở cho gia đình thị tộc. Trong xã hội có giai cấp, khái niệm thờ cúng tổ tiên được mở rộng và phát triển hơn. Khái niệm tổ tiên ban đầu được giới hạn trong trục huyết thống, bằng quan hệ thân tộc: Tổ nhà, Tổ họ. Nhưng trong quá trình phát triển của lịch sử, khái niệm tổ tiên cũng có sự biến đổi, phát triển. Tổ tiên không chỉ trong phạm vi huyết thống từ gia đình đến họ tộc, mà còn mở rộng 15 ra cả làng xã, đất nước. Đặng Nghiêm Vạn cho rằng: “Đạo thờ tổ tiên theo nghĩa rộng không chỉ thờ những người có công sinh dưỡng đã khuất, nghĩa là những người có cùng huyết thống, mà thờ cả những người có công với cộng đồng, làng xã và đất nước” [60,315]. Ở Việt Nam, thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng phổ biến. Nó được thể hiện ở bốn cấp độ chủ yếu. Một là, thờ cúng cha mẹ, ông bà. Hai là, thờ ông tổ dòng họ theo huyết thống. Ba là, thờ những tổ nghề, những người có công khai phá những vùng đất mới, dựng làng lập ấp, đánh giặc cứu dân ... đã được dân làng tôn vinh thờ phụng là Thành Hoàng. Bốn là, thờ Vua như một vị thần của quốc gia dân tộc, mà điển hình là thờ Hùng Vương. Ở nước ta, vua Hùng được xem là ông Tổ của người Việt và cũng là ông Tổ của 54 dân tộc, là người có công khai quốc, được thờ ở Đền Hùng-Phú Thọ và nhiều nơi trên cả nước. Thờ cúng tổ tiên là hoạt động có ý thức của con người. Từ điển Tiếng Việt đã chỉ rõ: “ Thờ được hiểu theo hai nghĩa : 1- Tỏ lòng tôn kính thần thánh, vật thiêng hay linh hồn người chết bằng hình thức lễ nghi, cúng bái theo phong tục hay theo tín ngưỡng; 2- Tôn kính và coi là thiêng liêng. Còn cúng thì được hiểu : Dâng lễ vật lên thần thánh hay linh hồn người chết theo tín ngưỡng ” [58,921]. Thờ cúng tổ tiên là thể thống nhất của các yếu tố: ý thức về tổ tiên, biểu tượng về tổ tiên và lễ nghi thờ cúng. Yếu tố ý thức về tổ tiên chính là sự “thờ” của con cháu đối với tổ tiên. Thờ tổ tiên là tâm linh, là tình cảm tri ân của con cháu hướng về cội nguồn tổ tiên. Con cháu thể hiện sự thành kính, lòng biết ơn tổ tông, ông bà, cha mẹ đã sinh thành, gây dựng cuộc sống cho mình. Đồng thời, đó cũng là lòng mong mỏi, niềm tin thiêng liêng vào sự che chở, giúp đỡ của tổ tiên. Cơ sở của sự hình thành ý thức về tổ tiên là niềm tin về linh hồn bất tử, tổ tiên tuy đã chết song linh hồn vẫn sống thường lui tới gia đình ngự trên bàn thờ. Khi nghiên cứu về mối quan hệ huyền bí và mạnh 16 mẽ giữa người sống và người chết trong ý thức về tổ tiên, nhà sử học người Pháp Edousd Chavaunes đã viết: Người chết chỉ có thể yên ổn trong phần mộ của mình hay trên bàn thờ gia đình, nếu con cháu dâng cúng lễ vật theo nghi thức, ngược lại, người sống chỉ sung sướng khi được bao bọc bởi những ảnh hưởng tốt lành của người chết đang che chở cho họ một cách bí ẩn” [11,184]. Ý thức về tổ tiên được hình thành và củng cố qua nghi lễ thờ cúng tổ tiên và biểu tượng về tổ tiên. Biểu tượng về tổ tiên là những hình ảnh đẹp, là những người tài giỏi - có công có đức được con cháu gán cho tổ tiên và luôn tôn vinh, khắc hoạ trong tâm tưởng. Biểu tượng về tổ tiên có thể được thể hiện bằng bài vị, tượng, ảnh và được trang trí, bày đặt một cách tôn kính, trang trọng tại nơi thờ cúng. Nghi lễ thờ cúng là hoạt động dưới hình thức hành lễ, được qui định do quan niệm, phong tục tập quán của mỗi gia đình, dòng họ, mỗi cộng đồng, dân tộc. Nghi lễ cúng là phương tiện để con người có thể giao tiếp với tổ tiên, “lấy lòng” tổ tiên, nó được thực hiện bởi người trưởng gia đình, dòng họ, với các động tác như dâng lễ vật, khấn, lễ... Như vậy, thờ và cúng là hai yếu tố có mối quan hệ mật thiết với nhau trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trong đó, yếu tố ý thức, tư tưởng, tình cảm tôn thờ tổ tiên là nội dung cốt lõi, còn cúng là hình thức biểu đạt của nội dung, là phương tiện chuyển tải ý thức, tình cảm của con cháu đối với tổ tiên. Vì vậy, bàn đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cần phải chú ý tới cả hai yếu tố ý thức và lễ nghi. Trên cơ sở khái niệm thờ cúng tổ tiên, tác giả luận văn làm rõ khái niệm, nguồn gốc và bản chất của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt. 1.2- TÍN NGƢỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN CỦA NGƢỜI VIỆT 1.2.1- Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt 17 Tôn giáo, tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một bộ phận thuộc ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và chịu sự qui định của tồn tại xã hội. Nguồn gốc xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là toàn bộ những nguyên nhân và điều kiện khách quan của đời sống xã hội, trong đó, một số nguyên nhân và điều kiện gắn liền với mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, một số khác thì gắn với mối quan hệ giữa con người với con người. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, sự bất lực của con người trong sự đấu tranh với tự nhiên là một trong những nguồn gốc xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nó được sinh ra bởi sự hạn chế trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sự hạn chế đó được bắt nguồn từ trình độ thấp của lực lượng sản xuất. Trong xã hội nguyên thuỷ, con người sống gần như lệ thuộc hoàn toàn vào môi trường tự nhiên. Thế giới bao quanh người nguyên thuỷ luôn bí hiểm, đe dọa cuộc sống hàng ngày của họ. Con người càng yếu đuối, bất lực trước giới tự nhiên bao nhiêu, thì những lực lượng tự nhiên càng thống trị con người mạnh bấy nhiêu. Chính trình độ thấp của sự phát triển sản xuất đã làm cho người nguyên thuỷ không có khả năng nắm bắt được bản chất, qui luật vận động của giới tự nhiên. Họ cảm thấy đằng sau những hiện tượng tự nhiên, có một sức mạnh huyền bí nào đó chi phối, mà họ không giải thích nổi. Để chế ngự những sức mạnh huyền bí này, người nguyên thuỷ đã tìm đến những phương tiện tưởng tượng hư ảo, ý tưởng về thần linh sống trong sự vật, có thể tách khỏi sự vật và tác động đến đời sống con người. Những biểu tượng về các thần linh, về tổ tiên tô tem bắt đầu xuất hiện. Bên cạnh mối quan hệ với tự nhiên, con người trong quá trình tồn tại và phát triển còn có các mối quan hệ với nhau. Khi xã hội diễn ra sự phân chia giai cấp, tính tự phát của sự phát triển xã hội và ách áp bức giai cấp cùng chế độ người bóc lột người cũng là một trong những nguồn gốc xã hội chủ yếu của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Khi nghiên cứu về điều này, Lê nin đã chỉ rõ: “ Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn 18 bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của những người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỉ, vào những phép màu[71,46]. Tuy nhiên, khi lý giải sự bất lực của quần chúng bị bóc lột trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng là một trong những nguồn gốc xã hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là theo nghĩa tương đối. Chính bản thân giai cấp thống trị cũng tìm đến tín ngưỡng này và cũng có nhu cầu thờ cúng tổ tiên. Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, tính chất tự phát của sự phát triển xã hội không chỉ tác động vào giai cấp bị trị, mà còn tác động tới giai cấp thống trị . Đó là sự bất lực của toàn xã hội. Nó bị hạn chế trong khuôn khổ, trình độ, năng lực còn hạn chế của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Vì vậy, bản thân quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa con người với con người trong xã hội không sản sinh ra tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, mà chính sự hạn chế của các mối quan hệ đó mới là nguồn gốc xã hội của tín ngưỡng này. Qua sự phân tích trên, chúng ta thấy rõ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được hình thành từ xa xưa và tồn tại phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới, trong đó có dân tộc Việt. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được duy trì và tiếp tục tồn tại , phát triển, tồn tại đan xen cùng với các tín ngưỡng, tôn giáo khác. Bên cạnh nguồn gốc xã hội mang tính khách quan, thì nhân tố chủ quan là nhận thức và tâm lý cũng là một nguồn gốc quan trọng dẫn đến sự ra đời và tồn tại của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Sự xuất hiện của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn có nguyên nhân từ bản thân quá trình nhận thức cùng những đặc điểm của nó. Bàn đến nguồn gốc nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước hết là bàn đến khả năng lý giải những hiện tượng tự nhiên và xã hội của con người. Ở đây có hai phương diện cần lưu ý đó là: trình độ nhận thức sơ khai của con người và 19 những nhận thức sai lầm của họ. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời do trình độ nhận thức còn hạn chế của con người về tự nhiên và xã hội, nhận thức chưa đạt đến sự thấu hiểu bản chất của sự vật và hiện tượng. Như Ăng ghen đã nhận xét: “ Tôn giáo sinh ra từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con người về bản chất chính họ và về thế giới tự nhiên bên ngoài, xung quanh họ” [34,445]. Phân tích những cơ sở nhận thức sai lầm của con người, chúng ta thấy nguồn gốc nhận thức của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn gắn liền với đặc điểm của quá trình nhận thức. Nhận thức là một quá trình phức tạp, mâu thuẫn, nó là sự thống nhất biện chứng giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan. Hình thức phản ánh thế giới càng đa dạng, phong phú, thì con người càng có khả năng nhận thức thế giới xung quanh sâu sắc và đầy đủ. Nhưng mỗi hình thức mới của sự phản ánh thế giới hiện thực không những tạo ra những khả năng mới để nhận thức thế giới sâu hơn, mà còn tạo ra khả năng phản ánh xa rời thế giới hiện thực, phản ánh sai lầm nó. Phân tích đặc điểm của quá trình nhận thức, Lê nin cho rằng, thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo, của những quan niệm về thần chính là sự tuyệt đối hoá, sự cường điệu một mặt của quá trình nhận thức của con người - mặt hình thức chủ quan, làm mất đi nội dung khách quan, không còn cơ sở “thế gian”- nghĩa là thành cái siêu nhiên, thần thánh. Lê nin viết: Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng tượng, tức chính bằng phương pháp tách rời như thế khỏi bản chất cảm tính, khỏi vật chất của giới tự nhiên, lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay là một thực thể độc lập [68,34]. Như vậy, năng lực khái quát hoá, trừu tượng hoá của tư duy con người là một tiền đề nhận thức quan trọng cho sự hình thành niềm tin vào linh hồn

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net