ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005)

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005)

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------- TRẦN DANH NAM ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HOÁ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN Y TẾ (1986-2005) CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.56 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HỒ KHANG HÀ NỘI – 2008 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chƣơng 1: VAI TRÕ CỦA NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC NÓ MỘT CÁCH HỢP LÝ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG 9 NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó trong quá trình công 9 nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 1.1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên 9 1.1.2. Vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với sự phát triển xã hội nói chung và 14 trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng 1.2. Sự cần thiết phải khai thác một cách hợp lý nguồn lực tự nhiên trong 23 quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay Chƣơng 2: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN 29 Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Một số nét khái quát về nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam 29 2.1.1. Vị trí địa lý 29 2.1.2. Tài nguyên thiên nhiên 30 2.2. Tình hình khai thác nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam hiện nay: những 39 thành tựu và hạn chế chủ yếu 2.2.1. Những thành tựu chủ yếu 39 2.2.2. Những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân của nó 48 2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 62 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG CHUNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP - KIẾN NGHỊ CƠ BẢN NHẰM KHAI THÁC HỢP LÝ NGUỒN LỰC 68 TỰ NHIÊN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Phương hướng chung 69 3.2. Một số giải pháp - kiến nghị cơ bản 72 KẾT LUẬN 91 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện nay, khi đề cập đến vấn đề các nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, người ta thường nhấn mạnh đến nguồn lực con người. Điều đó là hoàn toàn chính xác, đặc biệt là trong điều kiện các nước đang phát triển như Việt Nam muốn rút ngắn quá trình phát triển để từng bước theo kịp trình độ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, nguồn lực tự nhiên là yếu tố đặc biệt quan trọng không thể thiếu trong quá trình sản xuất của xã hội loài người. Mặc dù bản thân nguồn lực tự nhiên tự nó không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng không có nguồn lực tự nhiên thì sẽ không có bất kỳ quá trình sản xuất xã hội nào để tạo ra của cải vật chất. Có thể khẳng định, quy mô và tốc độ phát triển của sản xuất xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực tự nhiên. Tuy nhiên, việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề rất phức tạp, bởi lẽ phải giải quyết được một vấn đề cơ bản là mối quan hệ tương tác giữa nguồn lực tự nhiên và sản xuất xã hội, có tính đối lập nhau: một phía là nguồn lực tự nhiên trong thiên nhiên có hạn; còn phía khác là nhu cầu khai thác và sử dụng nguồn lực tự nhiên để phục vụ cho sản xuất xã hội và con người là vô hạn. Nếu con người khai thác nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý trên cơ sở tôn trọng quy luật tự nhiên, quy luật sinh thái thì sự giàu có về nguồn lực tự nhiên sẽ là những yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngược lại, nếu khai thác một cách bừa bãi vì lợi ích trước mắt theo kiểu “tước đoạt tự nhiên” không biết tái tạo thì đến một lúc nào đó nguồn lực tự nhiên sẽ bị cạn kiệt và con người sẽ phải trả giá. Những biến động bất thường của thiên nhiên theo chiều hướng xấu trong những năm qua do kết quả của sự khai thác nguồn lực tự nhiên một cách bừa bãi là những lời cảnh tỉnh, báo động cho sự bất ổn của nền kinh tế - xã hội phát triển không bền vững. Các khái niệm “khủng hoảng sinh thái” và 1 “cạn kiệt tài nguyên” đã xuất hiện và cũng đã trở nên quen thuộc trong thời gian vừa qua đã cảnh báo con người về một nguy cơ có thật đã đặt ra trước sự phát triển – nguy cơ bùng nổ khủng hoảng sinh thái. Chính vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn lực tự nhiên và bảo vệ môi trường sống là những vấn đề quan trọng nằm trong chiến lược phát triển bền vững của toàn nhân loại, cũng như của tất cả các quốc gia dân tộc. Vấn đề này đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế, trước hết là các nhà khoa học, đồng thời nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nhiều nhà khoa học. Mặt khác, ở một khía cạnh nhất định trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên nói chung và mối quan hệ giữa nguồn lực tự nhiên với sự phát triển kinh tế - xã hội nói riêng thì “con người với tự nhiên là một”, bởi “tự nhiên là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ dừng lại ở khía cạnh kinh tế, mà còn có ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường tự nhiên, môi trường sinh thái, và qua đó trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến cuộc sống của con người. Ph.Ăng-ghen đã từng cảnh báo chúng ta rằng: Con người hoàn toàn không thể thống trị giới tự nhiên như một người sống bên ngoài giới tự nhiên, như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, bởi vì bản thân chúng ta, với cả xương thịt, máu mủ và đầu óc, chúng ta thuộc về giới tự nhiên, nằm trong lòng giới tự nhiên [30, 655]. Vì vậy, việc khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng phải luôn luôn dựa trên cơ sở triết lý về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sao cho sự phát triển kinh tế phải đi đôi với sự phát triển và tiến bộ nói chung của loài người. Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển mới: giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi chúng ta phải huy động tối đa mọi nguồn lực, trong đó có nguồn lực tự nhiên để phát triển sản xuất, nâng cao 2 năng suất lao động, cải thiện đời sống cho nhân dân. Thời gian qua bằng việc phát huy tốt các nguồn lực, trong đó có nguồn lực tự nhiên tương đối giàu có, chúng ta đã xây dựng được một nền kinh tế với cơ cấu đa dạng, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh và vững chắc. Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường cũng có những tác động không nhỏ làm suy giảm nguồn lực tự nhiên và môi trường sống của con người. Nền kinh tế thị trường với đặc điểm là luôn lấy lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế của cá nhân người lao động làm động lực, làm mục tiêu của sự phát triển. Điều này ngoài mặt tích cực là khơi dậy tính năng động, sáng tạo của con người trong việc cải biến thế giới xung quanh, thì mặt tiêu cực của nó là làm trỗi dậy và tiếp sức cho những ham muốn cá nhân vị kỷ trước lợi ích vật chất - một chất men kích thích các chủ thể kinh tế. Vì thế, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật, lương tâm để trà đạp lên thiên nhiên, khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhằm đạt được mục đích hẹp hòi của mình, làm cho môi trường tự nhiên bị tàn phá, ô nhiễm nặng nề; thiên tai xảy ra liên tục, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe, đời sống và sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Những lý do trên đây đã đặt ra vấn đề cần phải nghiên cứu và đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho việc khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay, sao cho việc khai thác đó vừa đảm bảo đẩy mạnh phát triển sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa phải tăng cường bảo vệ, cải tạo và bồi dưỡng nguồn lực tự nhiên vì sự phát triển lâu bền. Nghĩa là phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa nguồn lực tự nhiên và con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở tính cấp thiết đó, tác giả đã quyết định chọn “Vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình. 3 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến đề tài nghiên cứu, có thể chia tài liệu thành các nhóm theo những vấn đề cơ bản sau đây: - Thứ nhất, nhóm tài liệu đề cập đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội và triết lý về sự phát triển. Thuộc nhóm vấn đề này có thể kể đến các công trình và bài viết: “Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội” do Hồ Sĩ Quý chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000; Phạm Thị Ngọc Trầm với các bài viết: “Sự thống nhất biện chứng của các mối quan hệ “con người và con người”, “con người và tự nhiên” trong quá trình lịch sử tự nhiên”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 1991; “Những tư tưởng cơ bản của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mối quan hệ con người, xã hội, tự nhiên”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 1992; “Tư tưởng của Ph.Ăngghen về tính thống nhất vật chất của thế giới và ý nghĩa của nó đối với việc giải quyết vấn đề sinh thái hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 1995… và một số bài viết sau này của tác giả đề cập đến đạo đức sinh thái. - Thứ hai, nhóm tài liệu đề cập đến một số đặc điểm của nguồn lực tự nhiên và thực trạng khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay. Nhóm vấn đề này được trình bày chủ yếu trong các sách và giáo trình về địa lý tự nhiên và địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam như: “Địa lý Việt Nam” do Trần Đình Gián chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1990; “Thiên nhiên Việt Nam” của Lê Bá Thảo, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1990; “Địa lý tự nhiên Việt Nam” của Vũ Tự Lập, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1999; “Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam” do Lê Thông chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2001… - Thứ ba, nhóm tài liệu đề cập đến thực trạng môi trường sinh thái trước tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội và vấn đề xây dựng ý thức, đạo đức sinh thái trong giai đoạn hiện nay, bao gồm các công trình và bài viết: “Triết học sinh thái” của Đỗ Minh Hợp, Tạp chí Triết học, số 4 năm 4 1995; Phạm Thị Ngọc Trầm với các bài viết: “Khía cạnh triết học – xã hội của vấn đề môi trường sinh thái ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 6 năm 1998; “Đạo đức sinh thái: từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Triết học, số 2 năm 1999; “Đô thị hóa ở Việt Nam và vấn đề xây dựng nếp sống văn hóa sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2001; Đoàn Văn Khiêm với “Một vài suy nghĩ về đạo đức sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 1 năm 2000; Phạm Văn Boong với bài viết “Một số nhận thức triết học – xã hội về vấn đề môi trường sinh thái”, Tạp chí Triết học, số 4 năm 2000; Hồ Sĩ Quý với “Đạo đức môi trường. Hội nghị quốc gia về phát triển bền vững, tháng 12 năm 2004”, Tạp chí Triết học, số 9 năm 2005… - Thứ tư, nhóm tài liệu đề cập đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với sự phát triển bền vững, bao gồm các bài viết: “Tăng trưởng kinh tế và những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát triển lâu bền” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học, số 4 năm 1992; “Sản xuất nông nghiệp và vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6 năm 1997; “Sự kết hợp giữa các mục tiêu kinh tế và sinh thái trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, số 5 năm 1996; “Một số vấn đề xã hội và nhân văn trong việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường ở Việt Nam” do Hà Huy Thành chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; “Xây dựng môi trường văn hóa cho sự phát triển bền vững của đất nước” của Trần Ngọc Hiên, Tạp chí Cộng sản, số 11 năm 2006; “Vấn đề đất đai trong phát triển bền vững ở nước ta hiện nay” của Đào Thế Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 20 năm 2006… - Thứ năm, nhóm tài liệu đề cập đến một số giải pháp bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm các công trình: “Chiến lược và chính sách môi trường” của nhóm tác giả Lê Văn Khoa, Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Tiến Dũng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000; “Về cách tiếp cận triết học – xã hội đối với hiện trạng môi trường 5 sinh thái nhân văn ở Việt Nam: các vấn đề, nguyên nhân và giải pháp (Nhân ngày môi trường thế giới 05/6/2004)” của Phạm Thị Ngọc Trầm, Tạp chí Triết học, số 6 năm 2004; “Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Phạm Khôi Nguyên, Tạp chí Cộng sản, số 10 năm 2006; “Những tác động của yếu tố văn hóa – xã hội trong quản lý nhà nước đối với tài nguyên, môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do Hoàng Hữu Bình chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006… Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách độc lập vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Chúng tôi coi những công trình đó là nguồn tài liệu tham khảo hết sức phong phú và hữu ích trong quá trình thực hiện đề tài luận văn của chúng tôi. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vai trò của nguồn lực tự nhiên và thực trạng khai thác nó ở nước ta, luận văn đưa ra những phương hướng và giải pháp – kiến nghị nhằm khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả các nguồn lực tự nhiên trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Trình bày thực trạng vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên ở nước ta hiện nay: những ưu điểm, hạn chế và các nguyên nhân của những hạn chế đó; những vấn đề đặt ra đối với việc tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 6 - Đưa ra một số phương hướng và giải pháp – kiến nghị cơ bản nhằm khai thác một cách hợp lý, có hiệu quả nguồn lực tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và con người nói chung, mối quan hệ biện chứng giữa nguồn lực tự nhiên và công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc nói riêng; đồng thời kế thừa những thành tựu trong các nghiên cứu trước đó về các vấn đề liên quan đến luận văn. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là: phương pháp phân tích, tổng hợp, lôgic và lịch sử… 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề khai thác nguồn lực tự nhiên phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. * Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ tập trung phân tích và đánh giá thực trạng của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên ở nước ta từ đổi mới đến nay. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn làm rõ thêm khái niệm cũng như vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với con người và nguồn lực tự nhiên với sự phát triển kinh tế - xã hội. - Đưa ra một cách phân tích hợp lý thực trạng khai thác nguồn lực tự nhiên ở Việt Nam thời gian vừa qua, qua đó thấy rõ hơn tầm quan trọng của 7 việc hiểu và vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và con người, giữa nguồn lực tự nhiên và sự phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình tiếp tục khai thác nguồn lực tự nhiên để phát triển đất nước. - Đưa ra được những nét cơ bản về phương hướng cũng như một số giải pháp - kiến nghị có tính khả thi nhằm khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả nguồn lực tự nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời gian tới. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn * Về mặt lý luận Luận chứng một cách tương đối đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa con người và tự nhiên nói chung, từ đó có được cơ sở lý luận vững chắc cho việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý, có hiệu quả để đảm bảo sự phát triển lâu bền trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. * Về mặt thực tiễn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các chuyên đề có liên quan; đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm đối với vấn đề khai thác và sử dụng các nguồn lực tự nhiên một cách hợp lý, có hiệu quả. 8. Kết cấu luận văn Ngoài lời cảm ơn, lời cam đoan, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết. 8 NỘI DUNG Chƣơng 1 VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ KHAI THÁC NÓ MỘT CÁCH HỢP LÝ TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên và vai trò của nó trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay 1.1.1. Khái niệm nguồn lực tự nhiên Trước khi bàn về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, chúng ta cần phải tìm hiểu khái niệm “nguồn lực”. Có thể nói rằng, cho đến nay chưa có tài liệu nào chính thức định nghĩa khái niệm “nguồn lực”. Qua tìm hiểu chúng tôi thấy, dưới dạng tổng quát, “nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Nghĩa là, khái niệm “nguồn lực” có phạm vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ những yếu tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả những yếu tố mới ở dạng tiềm năng; không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh; phản ánh không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến đổi không ngừng của các yếu tố đó. Việc phân loại nguồn lực tùy thuộc vào cách xác định các tiêu chí và xem xét chúng trong các quan hệ xác định. Chẳng hạn, theo tiêu chí khái quát nhất, nguồn lực được phân thành: nguồn lực vật chất và nguồn lực tinh thần; theo quan hệ bên trong – bên ngoài, và mỗi quốc gia được xem xét với tư cách là một sự vật, thì có nguồn lực bên trong (con người, vốn trong nước, cơ sở vật chất – kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý…) và nguồn lực bên ngoài (sự trợ giúp của nước ngoài, của các tổ chức quốc tế như vốn, công 9 nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý,…). Theo quan hệ chủ - khách thể thì có nguồn lực chủ quan (con người) và nguồn lực khách quan (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn trong nước và nước ngoài…). Theo quan hệ rộng – hẹp thì những yếu tố tạo nên một nguồn lực nào đó lại có thể trở thành nguồn lực của chính nguồn lực đó. Theo quan hệ nhân – quả thì tất cả những yếu tố tạo nên sức mạnh thúc đẩy sự phát triển xã hội đều được coi là nguồn lực (nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người, nguồn vốn...). Như vậy, các tiêu chí để phân loại nguồn lực rất đa dạng, do đó nguồn lực cũng rất phong phú, trong đó có nguồn lực tự nhiên [25, 59-60]. Cũng như khái niệm về “nguồn lực”, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”. Từ trước đến nay, người ta thường ít hoặc là không sử dụng khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, mà thay vào đó là các khái niệm “điều kiện tự nhiên” hay “tài nguyên thiên nhiên”. Để có được cách hiểu tường tận về khái niệm “nguồn lực tự nhiên”, trước hết cần phải hiểu thế nào là “tự nhiên” và mối quan hệ giữa các khái niệm “nguồn lực tự nhiên” với “điều kiện tự nhiên” và “tài nguyên thiên nhiên”. Mặc dù có nhiều cách luận giải khác nhau, nhưng về cơ bản, khái niệm “tự nhiên” được hiểu là tất cả những gì đang tồn tại một cách khách quan, là toàn bộ thế giới vật chất với tất cả các hình thức biểu hiện muôn màu muôn vẻ của nó, là tập hợp các điều kiện thiên nhiên vốn có sẵn, tồn tại ngoài ý thức của con người. Như vậy, tự nhiên bao gồm các nhân tố tồn tại khách quan ngoài ‎ý thức của con người như không khí, đất đai, khí hậu, nguồn nước, ánh sáng mặt trời, động, thực vật… Tự nhiên cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên cho con người như không khí để thở, đất đai để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, các loại khoáng sản cho sản xuất, là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho con người cảnh đẹp giải trí tăng khả năng tồn tại và phát triển của mình. 10 Điều kiện tự nhiên, theo quan điểm của triết học Mác, là yếu tố không thể thiếu đối với đời sống con người, là một bộ phận của giới tự nhiên tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất và đời sống con người. Ở đây, có thể hiểu, khi nói tới điều kiện tự nhiên thì không phải toàn bộ giới tự nhiên bao la, rộng lớn mà chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất và đời sống của con người. Tài nguyên thiên nhiên là những yếu tố của tự nhiên mà con người có thể khai thác, chế biến và sử dụng để tạo ra các sản phẩm vật chất. Như vậy, tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố quan trọng trong các hoạt động kinh tế, nó cấu thành các nguồn lực vật chất nguyên thủy cho hoạt động kinh tế. Với ý nghĩa như đã trình bày ở trên thì điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là những khái niệm có phạm vi hẹp hơn so với khái niệm tự nhiên. Qua tìm hiểu một số công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy khái niệm nguồn lực tự nhiên được hiểu như là điều kiện tự nhiên. Quan niệm này cũng có phần hợp lý, vì khi nói đến cả điều kiện tự nhiên lẫn nguồn lực tự nhiên thì cũng đều nói đến các yếu tố tự nhiên tác động đến quá trình sản xuất của con người. Tuy nhiên, theo chúng tôi, giữa hai khái niệm này có điểm khác nhau là, khi nói đến khái niệm nguồn lực tự nhiên tức là nói tới các yếu tố tự nhiên đã, đang và sẽ tham gia và thúc đẩy quá trình sản xuất; nói đến điều kiện tự nhiên ở dạng tiềm năng. Nói cách khác, điều kiện tự nhiên chỉ được coi là nguồn lực một khi nó được con người đã, đang và sẽ đưa vào quá trình khai thác và sử dụng cho mục đích sản xuất vật chất của xã hội. Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm nguồn lực tự nhiên; tuy nhiên, trong luận văn này, chúng tôi đồng ý với quan niệm cho rằng: “Nguồn lực tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ nguồn tài nguyên thiên nhiên như đất đai, nước, khoáng sản và những điều kiện tự nhiên khác có tác động trực tiếp và gián tiếp tới hoạt động của con người” [39, 76]. Đây là một khái niệm rộng, nó bao chứa cả nguồn tài nguyên thiên nhiên lẫn những điều kiện tự nhiên khác. Nghĩa là, xét về mặt ngoại diên, khái 11 niệm này rộng hơn so với khái niệm điều kiện tự nhiên hay tài nguyên thiên nhiên. Nói một cách cụ thể hơn thì nguồn lực tự nhiên chính là sự kết hợp của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên nhưng được xem xét ở dạng tiềm năng. Để hiểu cụ thể hơn, chúng tôi xin trình bày kết cấu của nguồn lực tự nhiên. Nguồn lực tự nhiên của một quốc gia bao gồm vị trí địa lý và các nguồn tài nguyên thiên nhiên đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. Trong đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên lại được chia thành những tài nguyên được sử dụng trong hiện tại và tài nguyên sẽ được sử dụng trong tương lai. Mục đích cách phân loại này là nhằm xác định phương hướng và kế hoạch sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên cho phát triển kinh tế hiện tại và cho các thế hệ tiếp theo; đồng thời đảm bảo sự cân đối giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Theo cách phân loại này, tài nguyên thiên nhiên được chia thành hai loại: - Tài nguyên không có khả năng tái sinh: là những nguồn tài nguyên có trữ lượng ở một mức độ giới hạn nhất định. Chúng chỉ có thể được khai thác ở dạng nguyên khai một lần, bao gồm những tài nguyên có quy mô không thay đổi như đất đai và các tài nguyên mà khi sử dụng thì cạn dần, không có cách gì hoàn trả lại, không có quy trình nào làm đầy lại được nguyên trạng của nó như các loại khoáng sản, dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, các mạch nước ngầm có tốc độ làm đầy thấp đến mức được coi như là không phục hồi được… Tuy nhiên, việc xếp tài nguyên nào đó vào loại tài nguyên không có khả năng tái sinh chỉ có tính chất tương đối, ví dụ như đất đai con người vẫn có thể mở rộng diện tích bằng cách lấn biển, hay đối với khoáng sản, dầu khí, người ta có thể tìm thêm những mỏ mới. Đối với loại tài nguyên này, chúng ta có thể chia làm ba nhóm: + Nhóm thứ nhất: tài nguyên không có khă năng tái sinh nhưng tạo tiền đề cho tái sinh (đất, nước tự nhiên…) 12 + Nhóm thứ hai: tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng có thể tái tạo được (kim loại, thủy tinh, chất dẻo…) + Nhóm thứ ba: tài nguyên cạn kiệt (than đá, dầu khí…) Tóm lại, những tài nguyên không có khả năng tái sinh, đặc biệt là dầu khí và các loại khoáng sản, khi sử dụng thì sẽ hết dần. Để có những mỏ mới đòi hỏi phải có quá trình hình thành lâu dài của lịch sử. Do vậy, cần có kế hoạch để khai thác trước mắt và lâu dài, vừa đảm bảo tính hiệu quả, vừa không làm ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai trong việc khai thác các nguồn tài nguyên đó. - Tài nguyên có khả năng tái sinh: là những tài nguyên có thể tự duy trì hoặc bổ sung một cách liên tục khi được sử dụng hợp lý. Những tài nguyên sinh vật là những nguồn tài nguyên có thể tái sinh được, chúng lớn lên cùng với thời gian và theo các quá trình sinh học. Tuy nhiên, nếu sử dụng không hợp lý thì nguồn tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái sinh nữa. Những tài nguyên này được chia thành hai loại: + Tài nguyên có khả năng tái sinh thông qua tác động của con người. Nguồn tài nguyên này bao gồm hai loại: nguồn tài nguyên rừng và các loài động thực vật trên cạn cũng như dưới nước. Những nguồn tài nguyên này sau khi khai thác chúng ta có thể có những khu rừng mới hoặc các loài động thực vật tiếp tục sinh sôi nảy nở, nếu con người có biện pháp và chính sách thích hợp. + Tài nguyên có khả năng tái sinh vô tận trong thiên nhiên: là những tài nguyên khi sử dụng không bao giờ hết. Nguồn tài nguyên này bao gồm các nguồn năng lượng như mặt trời, thủy triều, sức gió, thủy năng sông ngòi và các nguồn nước, không khí. Vì đây là những nguồn tài nguyên khi sử dụng có khả năng tự tái tạo, đặc biệt chúng chính là các nguồn năng lượng chủ yếu của con người, do đó cần có phương án nghiên cứu tích cực để có thể sớm đưa vào sử dụng một cách phổ biến. 13 Có thể thấy rằng, tự nhiên đã tạo ra và cung cấp cho con người những nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú. Những nguồn tài nguyên này có một vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế nói riêng và đời sống con người nói chung. Vậy vai trò ấy được thể hiện như thế nào? ‎ 1.1.2. Vai trò của nguồn lực tự nhiên đối với sự phát triển xã hội nói chung và trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng Ngày nay, khi đề cập đến các yếu tố của sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường nhắc tới 5 yếu tố, đó là: lưu lượng đầu vào của lao động (L), vốn (K), các tài nguyên thiên nhiên (N), khả năng kinh doanh (E) và công nghệ hiện hành (T). Như vậy, nói một cách khái quát thì các yếu tố của sự phát triển kinh tế nói riêng, của sự phát triển xã hội nói chung, ngoài nguồn vốn, bao gồm: nguồn lực tự nhiên và nguồn lực con người. Trong các nguồn lực nói trên thì nguồn lực con người được coi là quan trọng nhất, có vai trò quyết định đến sự vận động và phát triển của xã hội. Đặt trong bối cảnh hiện nay khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, lao động trí tuệ ngày càng gia tăng và đã trở thành yêu cầu khách quan, xu thế phổ biến của nhân loại, khi công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa mà cốt lõi là hiện đại hóa lực lượng sản xuất thì điều đó là hoàn toàn xác đáng; đặc biệt với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam muốn rút ngắn quá trình phát triển để từng bước theo kịp trình độ của các nước trên thế giới thì nguồn lực con người càng có vai trò quan trọng, thực sự trở thành nguồn lực có tính chất quyết định đến thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng, của sự vận động và phát triển của xã hội nói chung. Thực ra vai trò quyết định của nguồn lực con người đối với sự phát triển xã hội không phải đến ngày nay mới được khẳng định, mà trong lịch sử kinh tế học, một số nhà kinh tế học tư sản trước Mác, chẳng hạn như Adam Smith, đã cho rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.Ăng-ghen khẳng định rằng, lao động đúng là 14 như vậy. Tuy nhiên, Ph.Ăng-ghen cũng cho rằng, một mình lao động không thể sản sinh ra mọi của cải vật chất. Lao động trong sự kết hợp với giới tự nhiên, cái cung cấp những vật liệu cho lao động, mới tạo ra mọi của cải vật chất. Vì vậy, khi nói rằng nguồn lực con người có vai trò quyết định thì điều đó hoàn toàn không có nghĩa là tách nguồn lực con người một cách biệt lập với nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác. Trái lại, khi khẳng định nguồn lực con người có vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là đã đặt nguồn lực con người trên tiền đề là các nguồn lực hiện có, trong đó có nguồn lực tự nhiên. Khi xem xét nguồn lực tự nhiên nói riêng, môi trường tự nhiên nói chung trong mối quan hệ mật thiết với hoạt động sống của con người và sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người, trong đó nổi bật là hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất vật chất thì nguồn lực tự nhiên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có các vai trò cơ bản sau đây: 1. Nguồn lực tự nhiên và môi trường tự nhiên là không gian sinh sống và là không gian tổ chức các hoạt động của các cộng đồng dân cư, trong đó có các hoạt động kinh tế, hoạt động sản xuất vật chất. Trong triết học Mác, tự nhiên theo nghĩa rộng được hiểu là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Sự sống là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên theo những quy luật khách quan vốn có của nó; trong đó con người là một sản phẩm trực tiếp và cao nhất của sự tiến hóa của giới tự nhiên. Như vậy, giữa con người và giới tự nhiên có mối quan hệ gắn bó hữu cơ; trong đó tự nhiên chính là cái nôi, là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của con người; bởi vì tự nhiên chính là “thân thể vô cơ của con người”. Về điều này, C.Mác đã viết: “Giới tự nhiên, cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực mà bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể của con người, thân thể mà với nó, con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng 15 đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên” [29, 135]. Với tư cách là một cơ thể sống, là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người và xã hội loài người phải tiến hành trao đổi chất với môi trường tự nhiên, vì trao đổi chất là một đặc trưng cơ bản nhất của sự sống. Toàn bộ cấu trúc vật chất trong sinh quyển, từ đơn giản nhất đến phức tạp nhất, từ đơn bào đến đa bào, đến con người và xã hội loài người đã tác động với nhau và tác động qua lại với môi trường tự nhiên để tiến hành việc lưu thông, cải biến, tích lũy vật chất và biến hóa năng lượng, nhằm duy trì sự sống của bản thân, sự tồn tại và phát triển không ngừng của cả hệ thống. Các quá trình đó đã được thực hiện trong chu trình sinh học, hay chính xác hơn là chu trình sinh - địa - hóa học. Cơ chế hoạt động của chu trình sinh học, hay chu trình trao đổi vật chất, năng lượng, thông tin của sinh quyển, chính là cơ chế đảm bảo sự thống nhất về mặt chức năng hoạt động của hệ thống “con người - xã hội - tự nhiên”, phù hợp với cấu trúc của nó. Tuy nhiên, con người khác các loài sinh vật khác là ở chỗ, con người có hai cách trao đổi chất với môi trường tự nhiên: thứ nhất, với tư cách là một thực thể tự nhiên, con người đã tham gia vào chu trình sinh học như bất kỳ một động vật cao cấp nào khác (trao đổi chất trực tiếp với tự nhiên). Ở đây, môi trường tự nhiên cung cấp những điều kiện sống cơ bản như nước, ánh sáng, không khí, động, thực vật, v.v.. để thỏa mãn những nhu cầu sinh lý, sinh thái cần thiết cho con người với tư cách là một thực thể sinh vật (thực thể tự nhiên). Thứ hai, với tư cách là một thực thể xã hội, con người trao đổi chất gián tiếp với giới tự nhiên thông qua quá trình lao động sản xuất xã hội. Do vậy, nền sản xuất xã hội chính là phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội và tự nhiên. Ở phương diện này, thông qua hoạt động thực tiễn, trước hết là quá trình lao động sản xuất, con người đã thu được những dòng vật chất, năng lượng và thông tin từ môi trường tự nhiên, biến đổi chúng cho phù hợp với môi trường sống và phát 16 triển của con người. Sản xuất chính là sự liên hệ, sự thống nhất đặc trưng giữa xã hội và tự nhiên. Về vấn đề này, C.Mác viết: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [31, 206]. Như vậy, trên phương diện xã hội, thông qua hoạt động sản xuất vật chất, ngay từ đầu con người đã mang những đặc điểm hoàn toàn khác với tất cả các mắt khâu khác của chu trình sinh học. Đây là điểm căn bản, là ranh giới phân biệt về chất giữa con người và con vật; đồng thời chính nó cũng là cội nguồn của những vấn đề về khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên cũng như những vấn đề sinh thái gay gắt ngày nay. 2. Tự nhiên cung cấp nguồn vật chất (các loại tài nguyên thiên nhiên khác nhau, các loại nguyên, nhiên vật liệu), năng lượng, thông tin cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động sống của con người, trước hết và quan trọng hơn cả là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Như đã phân tích ở trên, hoạt động sản xuất vật chất của loài người chính là phương thức trao đổi chất đặc thù giữa xã hội với tự nhiên. Theo C.Mác, trong quá trình sản xuất vật chất, con người có mối “quan hệ song trùng”: một mặt là quan hệ giữa con người với tự nhiên được biểu hiện bằng lực lượng sản xuất, mặt khác là quan hệ giữa con người với con người được biểu hiện bằng quan hệ sản xuất. Phương thức sản xuất hay cách thức mà loài người sử dụng để tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử nhất định, chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với một quan hệ sản xuất phù hợp với nó. Trong quá trình sản xuất vật chất, con người đã sử dụng công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên nhằm cải biến các dạng vật chất sẵn có để tạo ra của cải vật chất, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Vì thế, để quá trình sản xuất có thể diễn ra được thì cần phải có hai điều kiện: thứ nhất, con người hay người lao động với sức lao động và trí tuệ của mình có vai trò quan trọng, giữ vị trí trung tâm; và thứ hai, là giới tự nhiên vừa là khách thể, 17 vừa là nơi con người khai thác các dạng vật chất sẵn có như đất đai, khí hậu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên..., cải biến chúng nhằm tạo ra của cải vật chất nuôi sống xã hội. Điều đó có nghĩa, mặc dù trong sản xuất vật chất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, có tính chất quyết định, nhưng chỉ riêng người lao động thì cũng chưa thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà người lao động trong mối quan hệ với giới tự nhiên mới là điều kiện đầu tiên, cơ bản của quá trình sản xuất vật chất. Như vậy, trong hoạt động sản xuất vật chất, mặc dù nguồn lực tự nhiên chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, là yếu tố mang tính chất thụ động, tự bản thân nó không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội, nhưng không có nguồn lực tự nhiên thì sẽ không có bất kỳ quá trình sản xuất xã hội nào để tạo ra của cải vật chất. Ở đây, nguồn lực tự nhiên đóng vai trò là yếu tố, là nguyên liệu “đầu vào” không thể thiếu của quá trình sản xuất. Có thể khẳng định rằng, quy mô và tốc độ phát triển của sản xuất xã hội phụ thuộc rất nhiều vào nguồn lực tự nhiên. 3. Môi trường tự nhiên là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải của quá trình trao đổi chất tự nhiên của con người - bằng quá trình đồng hóa, dị hóa và trao đổi chất đặc thù của xã hội với tự nhiên thông qua quá trình sản xuất xã hội. Tự nhiên không chỉ là môi trường trong đó diễn ra các hoạt động sản xuất vật chất, không chỉ là nơi cung cấp các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng… mà còn là nơi chứa đựng tất cả các chất phế thải do con người tạo ra trong quá trình sản xuất và tiêu dùng. Tại đây, nhờ hoạt động của vi sinh vật và các thành phần môi trường khác, các chất phế thải sẽ biến đổi trở thành các dạng ban đầu trong một chu trình sinh - địa – hóa phức tạp. Khả năng tiếp nhận và phân hủy chất thải của môi trường tự nhiên (trong điều kiện chất lượng môi trường khu vực tiếp nhận không thay đổi) được gọi là khả năng nền của môi trường. Khi lượng chất thải lớn hơn khả năng nền, hoặc thành phần của chất thải khó phân hủy và xa lạ với sinh vật, thì chất lượng 18

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net