Nhà rường huế từ góc nhìn văn hóa học

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Nhà rường huế từ góc nhìn văn hóa học

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN NGÔ LÊ ANH THƯ NHÀ RƯỜNG HUẾ TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC Mã số: 60.31.70 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN NGỌC KHÁNH Tp. HỒ CHÍ MINH – 2013 LỜI CẢM ƠN ∗ Trước tiên, tôi xin gửi lời chân thành cảm ơn đến những thầy cô Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn- Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, những người đã giảng dạy, hướng dẫn, cung cấp những nguồn tri thức hữu ích qua những buổi giảng bài, những quyển sách hay trong suốt những năm học cao học Văn hóa học. Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Tiến sĩ Trần Ngọc Khánh, người đã tận tâm, nhiệt tình hướng dẫn tôi từng bước hoàn chỉnh luận văn này. Hoàn thành luận văn này, tôi còn nhận được sự tận tình giúp đỡ từ phía những cán bộ làm ở Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế như thầy Phan Thanh Hải, Lê Vĩnh An, và những chủ nhân ngôi nhà rường ở Huế đã tạo điều kiện cho tôi khi đi khảo sát thực tế.... Tôi xin chân thành cảm ơn tất cả. Tôi xin cảm ơn bạn bè, gia đình, đồng nghiệp đã ủng hộ tinh thần, tạo điều kiện thuận lợi, giúp tôi vượt qua những khó khăn trong quá trình thực hiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin cảm ơn quý thầy cô trong hội đồng phản biện đã có những ý kiến nhận xét quý báu để luận văn tôi thêm hoàn chỉnh. NGÔ LÊ ANH THƯ MỤC LỤC DẪN NHẬP...................................................................................................... 6 1. Lý do chọn đề tài....................................................................................... 6 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 7 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................................................... 11 4. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................ 12 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn................................................................. 12 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ............................................. 13 7. Bố cục...................................................................................................... 14 CHƯƠNG 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............... 15 1.1. Cơ sở lý luận ....................................................................................... 15 1.1.1. Khái luận môi trường cư trú và nhà ở của người Việt cổ ............. 15 1.1.2. Định nghĩa nhà rường ................................................................... 19 1.1.3. Di sản văn hóa............................................................................... 22 1.2. Cơ sở thực tiễn – Định vị văn hóa nhà rường xứ Huế.................... 26 1.2.1. Không gian văn hóa ...................................................................... 26 1.2.2. Thời gian văn hóa.......................................................................... 30 1.2.3. Chủ thể văn hóa............................................................................. 35 CHƯƠNG 2 NHÀ RƯỜNG HUẾ NHÌN TỪ THỜI GIAN VĂN HÓA .. 48 2.1. Quá trình hình thành nhà rường...................................................... 48 2.1.1. Nhà rội - bước khởi đầu ................................................................ 49 2.1.2. Nhà rường - rội, bước chuyển tiếp ................................................ 53 2.1.3. Nhà rường – bước hoàn thiện ....................................................... 56 2.2. Quy trình lắp dựng nhà rường ......................................................... 62 2.2.1. Chuẩn bị thi công .......................................................................... 63 2.2.2. Trình tự thi công lắp dựng ............................................................ 64 3 2.2.3. Các nghi lễ liên quan tới việc xây dựng nhà rường ...................... 68 2.3. Quá trình phát triển nhà rường........................................................ 74 2.3.1. Nhà rường trong các kiến trúc cộng đồng làng xã........................ 74 2.3.2. Nhà rường trong các kiến trúc cung đình ..................................... 82 CHƯƠNG 3 NHÀ RƯỜNG HUẾ NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN HÓA ......................................................................................................................... 91 3.1. Cấu trúc không gian văn hóa nhà rường......................................... 91 3.1.1. Không gian xung quanh nhà rường............................................... 91 3.1.2. Không gian khuôn viên nhà rường................................................ 95 3.1.3. Không gian nội thất nhà rường ................................................... 105 3.2. Nhà rường Huế trong không gian văn hóa Việt Nam .................. 130 3.2.1. So sánh với nhà ở truyền thống của người Việt ở Bắc Bộ và Nam Bộ .......................................................................................................... 131 3.2.2. So sánh với nhà ở truyền thống của người Việt ở miền Trung... 141 CHƯƠNG 4 NHÀ RƯỜNG HUẾ NHÌN TỪ CHỦ THỂ VĂN HÓA... 147 4.1. Các giá trị di sản văn hóa nhà rường Huế..................................... 147 4.1.1. Giá trị di sản vật thể .................................................................... 148 4.1.2. Giá trị di sản phi vật thể .............................................................. 156 4.2. Đánh giá thực trạng tác động đối với nhà rường Huế ................. 158 4.2.1. Đánh giá thực trạng nhà rường ngày nay ở Huế......................... 158 4.2.2. Phân tích các nguyên nhân tác động đối với nhà rường Huế ..... 161 4.3. Định hướng bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nhà rường 168 4.3.1. Mục tiêu bảo tồn nhà rường ........................................................ 168 4.3.2. Nguyên tắc bảo tồn nhà rường .................................................... 170 4.3.3. Một số ý kiến về bảo tồn và phát huy các giá trị nhà rường....... 172 KẾT LUẬN .................................................................................................. 178 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 181 4 DANH MỤC HÌNH ẢNH........................................................................... 197 DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................................................... 200 DANH MỤC SƠ ĐỒ ................................................................................... 200 PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................... 201 DANH MỤC CÁC CHỦNG LOẠI GỖ CỦA NHÀ RƯỜNG ................ 215 5 DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Đối với cư dân nông nghiệp, định cư là vấn đề thiết yếu, và nhà ở là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sự ổn định ấy. Bởi thế mà cha ông ta vẫn quan niệm ba việc lớn ở đời là: lấy vợ, làm nhà và tậu trâu. Tuy nhiên, tùy điều kiện tự nhiên, xã hội và giao lưu văn hóa ở từng vùng mà kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống có các đặc điểm khác nhau. Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong, là kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Cho nên, cố đô Huế ngày nay mang trong mình không biết bao nhiêu di sản văn hoá vật thể và phi vật thể, trong đó có di sản nhà rường. Nhà rường không nổi tiếng như Kinh thành, Hoàng thành hay hệ thống Lăng mộ của vua chúa thời Nguyễn, hơn nữa nhà rường không hẳn là di sản của vùng đất cố đô, nhưng mỗi khi nhắc đến nhà rường thì người ta nghĩ ngay đến Huế. Đối với người Huế, việc dựng nhà rường luôn là một sự kiện trọng đại, thường là người đến tuổi “Ngũ thập tri thiên mệnh” mới đủ lực để tiến hành làm nhà, với khu vườn gắn liền với nó được chăm chút cẩn thận để thể hiện trình độ thẩm mỹ và vị trí xã hội của chủ nhân... Kì công và tỉ mỉ như vậy, nên nhà rường là một phần di sản văn hóa quan trọng của Huế. Ngày nay, khi Huế được công nhận một trung tâm, thành phố du lịch của miền Trung và của cả nước thì nhà rường Huế cũng được thiết kế để trở thành một tour chú ý như là một sản phẩm đặc sắc, di sản văn hóa của vùng đất. Là người được đào tạo về chuyên ngành Bảo tồn – Bảo tàng và có một thời gian dài ở Huế, chúng tôi muốn nghiên cứu nhà rường Huế để góp một 6 phần công sức trong việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy vốn di sản văn hóa này. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Nhà rường Huế từ góc nhìn văn hóa học” để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học. 2. Lịch sử vấn đề Nhà rường Huế là đề tài nhận được nhiều quan tâm của các nhà nghiên cứu, vì vậy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Từ một số công trình nghiên cứu nổi bật, có thể chia theo các hướng nghiên cứu chính như sau: Hướng thứ nhất, nghiên cứu khái quát về nhà rường, từ cách phân loại đến kết cấu kiến trúc cũng như các yếu tố phong thủy, dịch lý… trong nhà rường. Các nghiên cứu theo hướng này có: Nhà rường ở Huế (1999) của Chu Sơn, Nhà rường Huế (2002) của Phan Thanh Hải, hay Dựng nhà rường ở Huế xưa (2003) của Trịnh Bách, Thuật ngữ kiến trúc truyền thống nhà rường Huế (2006) của Vũ Hữu Minh, Nguyễn Thị Thúy Vi… Những nghiên cứu này đưa đến cho người đọc một cái nhìn khái quát nhất về nhà rường cũng như những vấn đề liên quan đến nhà rường, nhưng cũng chính vì vậy mà các nghiên cứu này chưa đi sâu vào các giá trị văn hóa của nhà rường Huế. Hướng thứ hai, nghiên cứu thành tố của nhà rường Huế như về cách đo đạc đặc biệt của nhà rường có một số bài như sau: Dấu mã hóa trên cây thước tầm trong nền kiến trúc cổ Việt Nam (2000) của Trịnh Cao Tưởng, Công cụ chế tác nhà rường Huế (2002) của Lê Vĩnh An và Hệ thống thước đo thời Nguyễn (2003) của Phan Thanh Hải; hay Đặc trưng trong phương pháp thiết kế kiến trúc gỗ truyền thống miền Trung Việt Nam (2010) của Hayashi. H… từ việc so sánh dụng cụ đo đạc để thấy sự khác biệt trong phương pháp thiết kế của từng vùng miền. Liên quan đến trang trí nhà rường nói riêng và kiến trúc Huế nói chung còn có: Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế (1992) của Nguyễn Hữu Thông 7 (chủ biên), Mỹ thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí (2001) của Nguyễn Hữu Thông… Ngoài ra, một số công trình khác của Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng với Mỹ thuật của người Việt (1989), Phan Thuận An với Kinh thành Huế (1999), Chu Quang Trứ với Văn hóa Việt Nam – nhìn từ Mỹ thuật Huế (2002)… có những chương, phần trình bày về mỹ thuật thời Nguyễn, không chỉ ở Huế mà cả ở miền Bắc. Hay các vấn đề về quan điểm, cách sống của chủ nhân trong những ngôi nhà truyền thống như: Ngôi nhà An Nam theo quan điểm tôn giáo (1937) của A. Chapuis, Tín ngưỡng dân gian Huế (1995) của Trần Đại Vinh, “Phong thủy trong vườn Huế” của Phan Thanh Hải (1996), Văn hóa Huế xưa (2006) của Lê Nguyễn Lưu… Hướng thứ ba, nghiên cứu kiến trúc nhà rường, xem nhà rường như một kiểu kiến trúc đặc trưng của Huế nhiều hơn là nghiên cứu văn hóa. Đi theo hướng nghiên cứu này có: Nghiên cứu nhà ở người Việt ở miền biển và miền Trung (1936) của P.Gourou, Từ những mái nhà tranh cổ truyền (1977) của KTS Nguyễn Cao Luyện, “Tìm hiểu kiến trúc Huế thế kỉ 19” (1988) của Nguyễn Quốc Hùng, Tìm hiểu lịch sử kiến trúc Việt Nam (1992) của Ngô Huy Quỳnh, Kiến trúc cổ Việt Nam (1994) của Vũ Tam Lang, Kiến trúc truyền thống Việt Nam (1996) của Chu Quang Trứ, Góp phần tìm hiểu bản sắc truyền thống Việt Nam (2000) của Nguyễn Đức Thiềm, Kiến trúc Việt Nam qua các triều đại (2002) của Nguyễn Đình Toàn, hay Nguồn gốc và quá trình phát triển của kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống của người Việt (2005) của Trần Thị Quế Hà… Hướng thứ tư, nghiên cứu nhà rường như một phần của nhà vườn Huế. Đi theo hướng nghiên cứu này có: Nhà vườn xứ Huế (2008) của Nguyễn Hữu Thông, Di sản văn hóa nhà vườn xứ Huế & Vấn đề bảo tồn (2002) tuyển tập nghiên cứu của tập thể cán bộ Phân viện nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật tại 8 Huế, và một loạt các bài nghiên cứu đăng trên các báo hay các bài tham luận trong các hội thảo, kỷ yếu mang đến nhiều kiến thức về các giá trị văn hóa trong nhà vườn Huế nói chung và nhà rường Huế nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chưa đi sâu vào nét đặc sắc, đặc trưng của kết cấu kiến trúc, nghệ thuật trang trí, hoặc kỹ thuật dựng... nhà rường Huế. Ngoài ra, cũng có một số luận văn, đề tài khoa học, khóa luận tốt nghiệp liên quan đến nhà rường như: Tâm thức người Việt và nhà vườn xứ Huế (luận văn Thạc sỹ năm 1999) của Hoàng Thanh Thủy (ĐH Kiến trúc Tp.HCM), Nghiên cứu và xây dựng bản đồ nhà truyền thống Huế (Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2005) của Khoa Kiến trúc Trường Đại học Khoa học Huế, và Nhà rường Huế (Khóa luận tốt nghiệp Khoa Lịch sử năm 1997) của Lê Quang Khánh (Trường Đại học Khoa học Huế). Tùy từng chuyên ngành mà nhà rường Huế được nghiên cứu dưới các góc độ và mức độ khác nhau. Ví dụ, qua luận văn “Tâm thức người Việt và nhà vườn xứ Huế ” của Hoàng Thanh Thủy thì việc nghiên cứu nhà rường chỉ chiếm một phần nhỏ trong luận văn, còn chủ yếu vẫn là bố cục, đặc điểm của ngôi nhà vườn và cách ứng xử, sinh hoạt của con người xứ Huế trong ngôi nhà đó; khóa luận “Nhà rường Huế ” của Lê Quang Khánh lại nghiên cứu nhà rường theo cái nhìn của một nhà nghiên cứu lịch sử, xem nhà rường như một thành tố vật chất để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của nhà rường, tuy nhiên do giới hạn là một khóa luận tốt nghiệp nên nghiên cứu vẫn còn chưa sâu. Bên cạnh đó, trong thời gian qua ở Huế cũng đã có nhiều cơ quan, đơn vị trường học tiến hành nhiều đợt điều tra, khảo sát nhà rường, với nhiều kết quả cụ thể giúp chúng tôi có thêm nguồn tài liệu thực tiễn quý giá để triển khai đề tài. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như sau: Năm 1986, Bảo tàng thành phố Huế đã tiến hành khảo sát nắm tình hình phủ đệ và nhà vườn Huế, bước đầu xác định một số đơn vị di tích cần lập 9 hồ sơ khoa học và thủ tục pháp lý bảo tồn. Trên cơ sở đó, đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh về “Khảo sát, đánh giá, đề xuất giải pháp bảo tồn các di tích lịch sử văn hóa và cảnh quan có giá trị ở thành phố Huế và phụ cận” đã được triển khai (1995-1997). Kết quả đã khảo sát 48 phủ đệ, 14 nhà vườn; đề xuất các giải pháp bảo tồn, các quy định về khai thác sử dụng di tích và vấn đề thành lập Hội bảo vệ di tích. Cũng vào năm 1995, Trường Đại học Nông Lâm Huế, với kinh phí đầu tư của Sở Khoa học Công nghệ & Môi trường, đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Vườn văn hóa – kinh tế - du lịch Huế”, qua đó khảo sát được 72 nhà vườn. Trong hai năm 1998-1999, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã phối hợp với Đại học Nữ Chiêu Hòa của Nhật Bản tiến hành điều tra nhà ở truyền thống Việt Nam trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên – Huế, lập danh mục 690 ngôi nhà truyền thống (giai đoạn I), trong đó có 70 nhà có giá trị nổi bật về kiến trúc, nghệ thuật được điều tra chuyên sâu hơn (giai đoạn II). Năm 2002, dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh Thừa Thiên – Huế, thành phố Huế đã triển khai tổng điều tra khảo sát phổ thông về nhà vườn Huế ở 25 phường xã với 4.228 nhà vườn, trong đó có 705 nhà rường và 150 nhà cổ tiêu biểu, được đưa vào danh sách bảo tồn đặc biệt. Năm 2005, tiếp nối các đợt điều tra nghiên cứu bước đầu của Trường Đại học Chiêu Hòa (Nhật Bản) và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế năm 1998, Khoa Kiến trúc Trường Đại học Khoa học Huế đã chủ động điều tra, nghiên cứu tiếp về “Quỹ nhà rường truyền thống tại Thừa Thiên - Huế”, đã mở rộng điều tra 1.042 nhà ở 6 huyện ngoại thành1 và thành phố Huế. Theo kết quả điều tra, nhà rường truyền thống Huế tập trung nhiều nhất ở thành phố 1 Huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền, huyện Hương Trà, huyện Phú Vang, huyện Hương Thủy, huyện Phú Lộc. 10 Huế với 318 nhà, huyện Hương Trà với 300 nhà, Phú Vang 121 nhà, nơi ít nhất là huyện Phú Lộc với 48 nhà. Tháng 4.2011, Phòng Văn hóa và Thông tin TP. Huế tiến hành thống kê lại thì trong số 150 nhà rường - vườn tiêu biểu của năm 2002, chỉ còn 52 nhà còn được giữ nguyên hoặc bị biến động nhỏ… Mặc dù các nghiên cứu trên về nhà rường Huế khá quy mô, phong phú, nhưng thường chỉ đi sâu nghiên cứu một khía cạnh trong đối tượng, hoặc chủ yếu chỉ mang giá trị tư liệu khảo sát. Vì vậy, kế thừa tri thức và tiếp nối công trình của những người đi trước, luận văn Nhà rường Huế từ góc nhìn văn hóa học hy vọng sẽ là một công trình tập hợp nhiều kiến thức liên ngành mang tính hệ thống, góp phần bổ sung và hoàn thiện các nghiên cứu về nhà rường Huế cho đến nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nhà rường Huế nhìn từ góc độ văn hóa. Nhà rường Huế là loại hình nhà ở đặc trưng cho kiến trúc nhà ở truyền thống trong một giai đoạn lịch sử ở Huế (nhà kết hợp, gắn bó với vườn, theo một bố cục chi phối của nhiều yếu tố như phong thủy, luật lệ…). Nghiên cứu nhà rường từ góc độ văn hóa sẽ mang đến cái nhìn tổng quan về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của nhà rường, nhất là khi đặt trong các mối tương quan về thời gian, không gian và chủ thể văn hóa. Phạm vi nghiên cứu: - Thời gian: từ khi kiểu kiến trúc nhà rường được hình thành ở Huế (khoảng thế kỉ XVI-XVII) cho đến nay. - Không gian: ở Thừa Thiên - Huế là chủ yếu, trong đó mô tả các đặc trưng của nhà rường trong dân gian và cung đình, liên hệ so sánh nhà rường với các loại hình nhà ở truyền thống của một số vùng miền khác. 11 - Chủ thể: chủ nhân, người dân đã và đang sống trong các ngôi nhà rường ở Huế và những người liên quan đến nhà rường Huế (những nhà quản lý, những nhà bảo tồn…). 4. Mục tiêu nghiên cứu Việc nghiên cứu nhà rường Huế hướng đến các mục tiêu: - Làm rõ các giá trị và đặc trưng của nhà rường trong văn hóa xứ Huế nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung; - Qua nhà rường Huế, tìm hiểu văn hóa Huế ở một góc độ mới – văn hóa cư trú, trong sự tương quan so sánh với các vùng, miền văn hóa khác; - Tích hợp kiến thức về nhà rường - một loại hình cư trú tiêu biểu ở Huế, từ đó có thể vận dụng trong việc quản lý, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản nhà rường Huế. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 5.1. Ý nghĩa khoa học: Thông qua việc tham khảo và tập hợp các nguồn tư liệu liên quan đến nhà rường Huế, luận văn góp phần cung cấp thông tin một cách hệ thống cho giới khoa học cũng như các nhà quản lý về những đặc trưng và giá trị văn hóa của nhà rường Huế. Dưới góc nhìn Văn hóa học, luận văn nghiên cứu nhà rường đặt trong các bối cảnh thời gian và không gian khác nhau, trong đó kết hợp giữa không gian nhà rường và nhà vườn ở Huế, vừa làm tăng thêm ý nghĩa và giá trị di sản văn hóa nhà rường, vừa góp phần khắc phục hạn chế rời rạc của các kết quả nghiên cứu trước đây do còn ít vận dụng phương pháp liên ngành. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài luận văn cũng góp phần nâng cao nhận thức của người dân về tầm quan trọng của di sản nhà rường trong vùng văn hóa Huế. Bởi vì, hiện nay nhà rường Huế đã và đang bị mai một rất nhiều do những người dân thiếu 12 ý thức, ham lợi nhuận hoặc không có khả năng duy tu, bảo tồn nhà cổ đã bán đi cho các “đại gia” thích sưu tầm hoặc những người kinh doanh. Phục vụ công tác quản lý kiến trúc, quy hoạch mới tại các vùng có di sản, cũng như đặt yêu cầu khai thác, phát huy những giá trị (vật thể và phi vật thể) của nhà rường ở Huế một cách hợp lý nhất. 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu Về quan điểm tiếp cận: từ góc nhìn văn hóa học, vận dụng kiến thức liên ngành xã hội học, dân tộc học, địa lý học, lịch sử, kiến trúc… để tập hợp thành tri thức mang tính hệ thống. Về phương pháp nghiên cứu, đề tài luận văn vận dụng các phương pháp chủ yếu sau: - Phương pháp cấu trúc hệ thống: phương pháp này giúp chúng tôi xác lập các quan hệ cấu trúc giữa các yếu tố cấu thành đối tượng cũng như tìm hiểu đối tượng trong sự tương thuộc với các thành tố văn hóa khác, nhờ đó mà tránh được những hạn chế do việc tiếp cận một chiều, rời rạc. - Phương pháp so sánh: so sánh nhà rường Huế với các loại hình nhà truyền thống ở Bắc Bộ, nhà rường Nam Bộ và nhà rường ở một số tỉnh miền Trung khác để tìm hiểu về nguồn gốc, các đặc trưng độc đáo của nhà rường ở Huế, cũng như sự biến đổi của nhà rường Huế theo chiều dài lịch sử. - Phương pháp nghiên cứu thực địa: đây là một trong những phương pháp quan trọng để việc nghiên cứu đề tài này đưa đến một kết quả mang tính xác thực, được kiểm chứng thông qua thực trạng. Nguồn tài liệu để sử dụng chủ yếu là các nguồn tư liệu thành văn có liên quan đến nhà rường Huế, đã được công bố trong thư tịch, sách, báo, tạp chí ở nhiều ngành khác nhau như văn hóa, kiến trúc, xã hội học, ngôn ngữ... cùng với nguồn tư liệu “điền dã” qua quá trình khảo sát thực tế tại các nhà rường ở Huế trong thời gian thực hiện luận văn. 13 7. Bố cục Ngoài phần Dẫn nhập , Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn gồm có bốn chương: CHƯƠNG 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Cung cấp cái nhìn khái quát về kiến trúc nhà ở nói chung và nhà rường nói riêng, để từ đó khu biệt nhà rường Huế - đối tượng nghiên cứu chính của luận văn - với các loại kiến trúc nhà ở khác. Ngoài ra, chương này còn định vị nhà rường Huế trong thời gian, không gian và chủ thể văn hóa xứ Huế - nơi đã sản sinh một loại hình kiến trúc nhà ở đặc sắc, từ đó làm tiền đề để nghiên cứu các chương còn lại. CHƯƠNG 2: NHÀ RƯỜNG HUẾ NHÌN TỪ THỜI GIAN VĂN HÓA Chương này xem xét nhà rường Huế từ trục thời gian, để thấy nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển, biến đổi của nhà rường ở Huế, qua các loại hình kiến trúc và qua từng giai đoạn cho đến nay. CHƯƠNG 3: NHÀ RƯỜNG HUẾ NHÌN TỪ KHÔNG GIAN VĂN HÓA Chương này nhìn nhà rường Huế từ trục không gian, để hiểu được cách ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong phạm vi nhà rường, tìm hiểu kiến trúc nhà rường trong dân gian và trong cung đình, từ đó so sánh các đặc trưng kiến trúc nhà rường Huế với các loại hình kiến trúc nhà ở dân gian truyền thống ở các vùng miền khác. CHƯƠNG 4: NHÀ RƯỜNG HUẾ NHÌN TỪ CHỦ THỂ VĂN HÓA Từ góc độ chủ thể văn hóa, tìm hiểu các giá trị di sản nhà rường ở Huế; đánh giá hiện trạng tác động và nêu ra ý kiến về một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị di sản nhà rường Huế. 14 Chương 1 NHỮNG TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận Nhà ở là đối tượng nghiên cứu có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, phức tạp. Cho nên, để làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu của luận văn, người viết khái luận về môi trường cư trú và nhà ở của người Việt cổ để từ đó có cái nhìn khái quát định nghĩa nhà rường, làm tiền đề về mặt lý thuyết khu biệt các phạm vi nghiên cứu chính của luận văn. 1.1.1. Khái luận môi trường cư trú và nhà ở của người Việt cổ Đã từ lâu lắm rồi, ngay từ buổi bình minh của nhân loại, con người đã biết cách tạo ra môi trường cư trú để chống lại các yếu tố tác hại của tự nhiên. Đầu tiên, loài người nguyên thủy đã chọn các hang động tự nhiên làm nơi trú ngụ của mình, vừa chống lại các yếu tố khắc nghiệt của thiên nhiên mưa, nắng, bão… vừa để chống lại các loài thú dữ. Cùng với sự phát triển của xã hội thì môi trường cư trú của con người cũng phát triển. Và dần dần con người đã tự tạo nên một môi trường sống cho riêng mình, chứ không lệ thuộc các công trình có sẵn trong tự nhiên. Khái niệm ngôi nhà bắt đầu xuất hiện từ đó. Tuy nhiên, việc xây dựng một ngôi nhà lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa… cho nên mỗi khu vực hoặc mỗi dân tộc trên thế giới đều có một quá trình văn hóa nhà ở và hình thành địa bàn cư trú riêng cho mình. Ở Việt Nam, văn hóa nhà ở có thể đã bắt đầu từ khi người Việt cổ xuất hiện. Ban đầu với lối sống bầy đàn, lang thang rày đây mai đó, họ sinh tồn và phát triển dựa trên phương thức săn bắt và hái lượm. Cho nên, theo bản năng sinh tồn, họ tìm đến các hang đá có sẵn để tránh thú dữ và mưa nắng, ngăn cách môi trường bên trong, nơi con người trú ngụ, với môi trường bên ngoài 15 vốn chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu. Đến thời đại đồ đá cũ, mái đá là dư ảnh đầu tiên lưu giữ trong ký ức của loài người về không gian cư trú. Tuy chưa phải là nhà ở, nhưng mái là khởi đầu của không gian cư trú sơ khai khi người Việt cổ rời khỏi hang động. Vào thời đại đồ đá giữa, người Việt đã biết tạo môi trường cư trú cho riêng mình chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên. Văn hóa nhà ở bước sang một trang mới, từ tự phát sang tự giác, từ thiên tạo sang nhân tạo. Họ đã biết cách làm nhà lều (lều một mái, lều hai mái cố định, lều một mái cố định một mái di động), nhà chòi (chòi một mái, chòi hai mái, chòi ở trên cây, chòi trên mặt nước) để ở; và đến thời đại đồ đá mới, người Việt đã biết làm nhà sàn - một kiểu nhà rất thích hợp với những triền đất dốc cũng như vùng đất còn lầy lội. Hình 1.1. Lều và chòi thời đại đồ đá. Nguồn: Nguyễn Khắc Tụng 1978. Từ những cứ liệu khảo cổ học, dân tộc học và truyền thuyết cho thấy, nhà sàn với kiểu dáng ổn định đã xuất hiện từ thời Đông Sơn. Trên các trống đồng còn ghi lại hai loại nhà sàn chủ yếu: một loại kiểu mái cong hình mui thuyền, mái cong, chưa có vách, đuôi mái gối sát sàn nhà và làm nhiệm vụ 16 của tường; một loại khác có mái hơi lõm giữa, hai mái đổ dốc xuống hai bên – mái nhà ăn nghiêng thẳng xuống sàn, cửa được trổ ở hai đầu nóc, được uốn cong thành hình con “kìm” như ta thấy trên các nóc đình làng sau này, giữa nóc nhà có trang trí hình chim [Vũ Tam Lang 1999: 150]. Hình 1.2. Từ hình dáng ngôi nhà sàn trên trống đồng, suy ra hình dáng ngôi nhà sàn của người Việt cổ. Nguồn: Chu Quang Trứ 1996. Cùng với quá trình ông cha ta mở mang đất nước từ vùng núi, qua trung du rồi về đồng bằng cư trú và trồng lúa nước, nhà ở của người Việt đồng thời phát triển theo hai hướng: một hướng lưu lại các vùng đồi núi, vùng sông nước trở thành các chủng loại nhà sàn; một hướng tiếp cận với đồng bằng và vùng ven biển để trở thành nhà nền đất. Trên cả hai hướng, nhà ở của người Việt tiếp tục được định hình và tạo được nhiều không gian kiến trúc đa dạng và đặc sắc. Khi tiếp cận với đồng bằng, người Việt cổ có một bước tiến lớn về phương thức sản xuất, từ săn bắn chuyển sang trồng trọt, từ du canh du cư sang định canh định cư. Họ đã tìm ra nhiều cách để thích ứng và cải tạo nên môi trường sống tốt đẹp hơn. Ngoài việc canh tác trồng trọt, săn bắn, hái lượm, họ cũng đã biết thuần dưỡng thú hoang và các khu vực cư trú đã có 17 thêm những chuồng trại đơn sơ. Trong điều kiện xã hội phân hóa, nhà ở trở thành một trong những dấu hiệu biểu hiện sự khác biệt về địa vị, điều kiện kinh tế… trong cộng đồng. Nhà ở của dân thường khác nhà ở quan lại; nhà ở người giàu khác nhà ở người nghèo. Nhưng nhà ở không chỉ chịu ảnh hưởng mang tính giai cấp của phương thức sản xuất, mà trước hết là kết quả của cách thức con người ứng xử với tự nhiên. Cho nên, tùy theo điều kiện mỗi vùng mà nhà ở có những kiểu thức khác nhau. Nhà vùng biển có tỷ lệ thấp lùn, chắc chắn, xử lý cấu tạo giằng buộc chặt chẽ với mái lợp dày, để chống được gió bão hàng năm. Nhà vùng gió Lào Nghệ Tĩnh được chú ý che chắn hướng Tây Nam, bố cục và sử dụng vật liệu có tính cách nhiệt, thoáng mát, tường vách có khi chỉ là phên dại đơn giản. Nhà ở vùng Bình Trị Thiên cũng có loại nhà rường, được nhân dân địa phương ưa thích, xây dựng với kết cấu bộ khung bằng gỗ và đặc điểm riêng biệt trong kết cấu vì kèo với những đường xoi, nét chạm khéo léo. Nhà ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Đông Nam Bộ với vật liệu địa phương như gỗ, tre, thân dừa, rơm rạ, lá dừa nước… thừa kế ngôi nhà ba gian truyền thống – gọi là nhà “bát dần”, có sự mở rộng phát triển tùy theo yêu cầu cụ thể và biến đổi thành nhà “thảo bạt” (có nhà phụ trước hoặc sau), nhà “chữ Đinh” hoặc xếp song song thành nhà “xếp Đoài”, thường bám ven kênh rạch để tiện chuyên chở, đi lại sản xuất và sinh hoạt [Vũ Tam Lang 1999: 153]. Con người sống trong một cộng đồng xã hội, cho nên nhà ở còn chịu sự tác động của cách thức con người ứng xử với môi trường xã hội. Nhà ở phản ánh đời sống văn hóa tinh thần, cùng với tiến trình lịch sử xã hội, kinh tế và văn hóa, sự biến đổi về hoàn cảnh địa lý, môi trường sinh sống của dân tộc Việt Nam nói riêng, cho nên nhà ở là phương tiện cư trú và tổ hợp không gian sinh hoạt văn hóa của con người [Vũ Tam Lang 1999: 150]. 18 Tóm lại, nhà ở là một loại hình văn hóa kiến trúc, mang trong mình nhiều giá trị được hình thành qua cách con người ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. 1.1.2. Định nghĩa nhà rường Nhà ở trước hết là nơi cư trú của con người để đối phó với nóng lạnh, nắng mưa, gió bão, nhưng tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh xã hội mà mỗi cộng đồng người có cách lựa chọn và thể hiện khác nhau, tạo thành tập quán và đặc trưng văn hóa riêng. Chính vì thế mà ở Huế, kiến trúc nhà ở truyền thống phổ biến nhất chính là nhà rường. Về tên gọi, nhà rường được gọi với nhiều tên khác nhau. Ở miền Trung, nhà rường được gọi là nhà rương; còn ở miền Nam thì được gọi là nhà xuyên trính (đâm trính, nhà chày cối…). Tên gọi này có lẽ xuất phát từ bộ phận trính (Nam Bộ) hay trến (Trung Bộ), là bộ phận nằm ngang gần đầu cột cái, nối cố định hai cột cái của một vì kèo trong nhà rường. Tên gọi “nhà rường” ở miền Trung có nhiều cách giải thích, nhưng về cơ bản được chia làm hai loại sau: Cách giải thích thứ nhất xuất phát từ từ ngữ của Nguyễn Thượng Hỷ cho rằng chữ “rường” vốn là chữ lương (trong lương đống – cũng có nghĩa là rường cột) hoặc chữ "rường" với nghĩa là ràng lại, buộc trói lại2. Cách giải thích thứ hai chủ yếu dựa vào đặc điểm kỹ thuật. Trong sách tiếng Pháp của Giáo sư Sử học Lê Văn Hảo do UNESCO ấn hành có lý giải: Vì trong 24 chi tiết kết cấu làm nhà như cột kèo rui mè đòn tay, con sẻ thì quan trọng nhất là hai thanh rường gọi là “bụng heo và rường cụt”, nên gọi nhà rường. 2 Chữ "rường" nghĩa là ràng lại, buộc trói lại, cho nên từ “rường” trong nhà rường để chỉ kiểu kỹ thuật liên kết các cột bằng xà, xuyên (thượng, hạ), như "ràng" các cột lại tạo thế vững vàng khi đặt các cột này trên đế kê bằng. 19 Hay còn có một cách giải thích khác, đơn giản hơn, bởi vì trong ngôi nhà rường thì bộ rường – bộ khung nhà là quan trọng nhất. Rường nhà chính là nền tảng căn bản làm nên ngôi nhà rường, cho nên gọi là nhà rường. Alexandre de Rhodes trong cuốn từ điển năm 16513 cũng đã giải thích về việc loại nhà này có tên gọi nhà rương4 là bởi vì: “Phần liên kết hai cột cái theo hàng ngang bằng quá giang (lõng trếng) và hàng dọc bằng một xà gọi là xuyên. Trên quá giang và xuyên là cái sàn gọi là đố bản được khép kín về phía cửa vào bằng những tấm ván, trên đó người ta để các loại đồ dùng nên có tên gọi là rương, ở Quảng Nam gọi là rầm thượng, ở Bình Định gọi là lẫm thượng, nhưng bố trí ở nhà cầu và nhà lẫm để chứa đồ quý và lương thực. Rương hay rường cũng là một loại nhà giống nhau của miền Trung” [Pierre Gourou 2001: 92]. Tuy nhiên, ông Nguyễn Hữu Thông (2008), nhà nghiên cứu văn hóa Huế thì cho rằng: có khả năng Pierre Gourou đã nhầm phát âm rương và rường (?). Thêm vào đó, nhà có gác xép (gác lửng) ở các gian giữa mà người địa phương gọi là rầm thượng chỉ là một bộ phận của nhà rường. Rầm thượng được tạo thành một mặt làm nơi chứa đồ đạc, nhưng mặt khác là để che giấu bớt các bộ phận của một vì kèo đơn giản, không được trang trí. Như vậy, có nhiều định nghĩa về nhà rường, nhưng chúng tôi tổng hợp ba định nghĩa có thể nêu được những đặc trưng của nhà rường. Đó là: Theo nhà nghiên cứu Trịnh Bách: “Nhà rường là loại nhà có hệ thống cột kèo gỗ, được dựng lên theo những quy cách nhất định, thường kiến trúc theo hình chữ Đinh, chữ Khẩu, chữ Công hoặc nội Công ngoại Quốc. Dù to lớn đến đâu, nhà rường cũng được kết cấu hoàn toàn bằng hệ thống chốt và 3 Linh mục A. de Rhodes (1591-1660), người Pháp, là giáo sĩ dòng Tên, đã đến Đàng Trong và Đàng Ngoài nhiều lần. Ông để lại nhiều công trình biên khảo, trong đó liên quan tới đề tài này là cuốn tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum, xuất bản tại La Mã năm 1651). 4 Rương có nghĩa là cái hòm gỗ. 20

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net