Vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ cổ trong tiếng việt trên một số văn bản văn học và báo chí nam bộ cuối thế kỷ xix

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ cổ trong tiếng việt trên một số văn bản văn học và báo chí nam bộ cuối thế kỷ xix

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  DƢƠNG VĂN THANH VẤN ĐỀ CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CỔ TRONG TIẾNG VIỆT TRÊN MỘT SỐ VĂN BẢN VĂN HỌC VÀ BÁO CHÍ NAM BỘ CUỐI TK XIX LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  DƢƠNG VĂN THANH VẤN ĐỀ CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CỔ TRONG TIẾNG VIỆT TRÊN MỘT SỐ VĂN BẢN VĂN HỌC VÀ BÁO CHÍ NAM BỘ CUỐI TK XIX CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC MÃ SỐ: 6002201 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ BÍCH LÀI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014 LỜI CẢM ƠN Với mơ ước được học tập nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ học, tôi đã chọn Khoa Ngôn ngữ và Văn học của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn làm nơi theo học bậc Thạc sĩ ngôn ngữ học. Để hoàn thành công trình nghiên cứu của mình trong khi kiến thức hãy còn nông cạn, tôi đã đón nhận được sự dạy dỗ chỉ bảo tận tình của thầy cô, sự động viên và hỗ trợ từ gia đình và bạn bè. Xin chân thành cảm ơn cô Đỗ Thị Bích Lài, người đã không những tạo được sự đam mê học tập bộ môn ngay từ những ngày đầu tôi bắt đầu học mà còn là người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện công trình nghiên cứu này. Xin tỏ lòng biết ơn đến quý thầy cô giảng viên của Trường đã cung cấp kiến thức quý giá cũng như phương pháp nghiên cứu cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè đã giúp đỡ chia sẻ kiến thức, động viên tinh thần để tôi vượt qua những khó khăn trong suốt quá trình học tập và làm luận văn của mình. Xin chúc cô Lài, quý thầy cô, gia đình và bạn bè luôn may mắn, mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành đạt trong cuộc sống. Tp Hồ Chí Minh, ngày 8 tháng 9 năm 2014 Tác giả Dƣơng Văn Thanh DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2 3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 6 4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 7 5. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 8 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 8 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài .................................................... 9 8. Bố cục của luận văn .................................................................................... 9 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ 1.1. Khái niệm về từ ..................................................................................... 11 1.2. Khái niệm về cấu tạo từ ......................................................................... 13 1.2.1. Đơn vị cấu tạo từ trong tiếng Việt ...................................................... 13 1.2.2. Phương thức cấu tạo từ ....................................................................... 14 1.3. Sự phân chia lớp từ ................................................................................ 15 1.3.1. Xét từ góc độ cấu tạo .......................................................................... 15 1.3.1.1. Từ đơn ............................................................................................. 15 1.3.1.2. Từ ghép ............................................................................................ 15 1.3.1.3. Từ láy ............................................................................................... 16 1.3.1.4. Từ ngẫu hợp..................................................................................... 16 1.3.2. Xét từ góc độ tích cực và tiêu cực ...................................................... 18 1.3.2.1. Từ cổ ................................................................................................ 19 1.3.2.2. Từ lịch sử ......................................................................................... 26 1.3.2.3. Từ mới ............................................................................................. 27 1.4. Các loại nghĩa ........................................................................................ 28 1.4.1. Nghĩa ngữ pháp .................................................................................. 30 1.4.2. Nghĩa từ vựng ..................................................................................... 32 1.5. Vấn đề trường từ vựng – ngữ nghĩa ...................................................... 32 Tiểu kết chương 1 ......................................................................................... 35 Chƣơng 2 CẤU TẠO CỦA TỪ CỔ TIẾNG VIỆT TRÊN MỘT SỐ VĂN BẢN VĂN HỌC VÀ BÁO CHÍ NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX 2.1. Đặc điểm cấu tạo từ đơn trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX ................... 37 2.2. Đặc điểm cấu tạo từ ghép trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX ................. 43 2.2.1. Từ cổ là những từ ghép đẳng lập ........................................................ 47 2.2.1.1. Từ cổ là từ ghép đẳng lập đẳng nghĩa.............................................. 47 2.2.1.2. Từ cổ là từ ghép đẳng lập đơn nghĩa ............................................... 47 2.2.1.3. Từ cổ là từ ghép đẳng lập hợp nghĩa ............................................... 48 2.2.1.4. Từ cổ là từ ghép đẳng lập trái nghĩa ................................................ 48 2.3. Đặc điểm cấu tạo từ láy trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX .................... 49 2.3.1. Từ cổ là từ láy thuần Việt ................................................................... 52 2.3.2. Từ cổ là từ láy Hán Việt ..................................................................... 52 2.4. Đặc điểm cấu tạo từ ngẫu hợp trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX .......... 52 2.5. Từ cổ cuối thế kỷ XIX chỉ cấp bậc, quan chế........................................ 53 Tiểu kết chương 2 ......................................................................................... 54 CHƢƠNG 3 NGỮ NGHĨA TỪ CỔ CỦA TIẾNG VIỆT TRÊN MỘT SỐ VĂN BẢN VĂN HỌC VÀ BÁO CHÍ NAM BỘ CUỐI THẾ KỶ XIX 3.1. Ngữ nghĩa của từ cổ là hư từ ................................................................. 55 3.1.1. Nghĩa ngữ pháp của các hư từ cổ trong các tác phẩm cuối thế kỷ XIX ............................................................................................ 57 3.1.2. Nghĩa gốc và nghĩa phái sinh của hư từ cổ trong các tác phẩm cuối thế kỷ XIX ............................................................................................ 62 3.1.3. Từ thay thế các hư từ cổ trong văn bản hiện đại ................................ 62 3.2. Ngữ nghĩa của từ cổ là thực từ .............................................................. 63 3.2.1. Nghĩa từ vựng của từ cổ là thực từ trong các tác phẩm cuối thế kỷ XIX ............................................................................................ 64 3.2.2. Nghĩa gốc thực từ cổ trong các tác phẩm cuối thế kỷ XIX ................ 64 3.2.3. Nghĩa phái sinh của thực từ cổ trong các tác phẩm cuối thế kỷ XIX ............................................................................................ 65 3.3. Nghĩa của một số từ có vỏ ngữ âm lạ .................................................... 67 3.4. Trường từ vựng – ngữ nghĩa của từ cổ .................................................. 71 3.5. Bàn thêm về ngữ nghĩa của các từ cũ (không phải từ cổ) chỉ quốc gia, vùng miền................................................................................ 72 Tiểu kết chương 3 ......................................................................................... 73 Kết luận ....................................................................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 76 PHỤ LỤC TỪ CỔ ...................................................................................... 85 CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BVA: Bạch Vân am CNN: Con nhà nghèo CTKQ: Chúa Tàu Kim qui CĐX: Chuyện đời xưa ĐNQÂTV: Đại Nam quốc âm tự vị GĐB: Gia Định báo HĐ: Hồng Đức quốc âm thi tập HTBPHTN: Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn KLTN: Khóa luận tốt nghiệp LV: Luận văn LVT: Lục Vân Tiên LTTM: Lời thề trước miễu LNNH: Lòng người nham hiểm NCMĐ: Nông Cổ Mín Đàm NĐC: Nguyễn Đình Chiểu NC: Ngữ cảnh NHKD: Nghĩa hiệp kỳ duyên PT: Phật thuyết đạo báo phụ mẫu ân trọng kinh QÂTT: Quốc âm thi tập TĐTV: Từ điển tiếng Việt TNNL: Thiên Nam ngữ lục TGCH: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn TKML: Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giảm âm tập chú TMTĐ: Tài mạng tương đố DẪN NHẬP 1. Lý do chọn đề tài Ở địa hạt từ vựng – ngữ nghĩa học, nghiên cứu từ là gì, từ được cấu tạo bởi cái gì và như thế nào; nghĩa của từ và phân tích nghĩa của từ như thế nào, nghiên cứu từ trong quá trình phát triển của nó là các nhiệm vụ và mục đích cơ bản. Từ vựng là một tập hợp từ không chỉ của một giai đoạn, một thời kỳ, mà nó là sản phẩm hay kết quả của ngôn ngữ có tính lịch sử. Các từ của ngôn ngữ được sinh ra, được hoạt động – hành chức, và có thể mất đi theo sự phát triển và nhu cầu giao tiếp – phản ánh của một cộng đồng – xã hội. Trong quá trình học tập ở bậc cao học, chuyên ngành ngôn ngữ học, chúng tôi đã có nhiều quan tâm đến địa hạt từ vựng – ngữ nghĩa học, đặc biệt là lớp từ cổ thể hiện trong các tác phẩm văn học Nam Bộ cuối TK XIX – vùng đất mang nhiều đặc trưng văn hóa, xã hội độc đáo, riêng biệt, trong đó một phần có ngôn ngữ. Là một người con của Bến Tre, quê hương của những truyền thống cách mạng chống ngoại xâm TK XIX, tôi rất muốn được đóng góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào việc tìm tòi, nghiên cứu di sản văn hóa – văn học – ngôn ngữ của cha ông để lại, đồng thời với nguyện vọng cá nhân là muốn không ngừng nâng cao trình độ tri thức trên con đường học vấn của mình về lĩnh vực ngôn ngữ; mặt khác khi xem xét nghiên cứu đối tượng này, tôi nhận thấy chưa có một công trình chuyên biệt nào khảo cứu về vấn đề này một cách có hệ thống, chuyên sâu trên tư liệu các văn bản văn học Nam Bộ cuối thế kỷ XIX, vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ cổ trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX (Khảo cứu trên một số văn bản văn học Nam Bộ giai đoạn này)” làm đề tài luận văn Cao học của mình. 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Năm 1975, Đào Duy Anh, trong tác phẩm “Chữ Nôm – Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến” đã đưa ra khái niệm từ xưa và xem từ xưa là những từ “hiện nay không dùng nữa”. Theo ông, từ xưa gồm hai loại từ đơn và từ kép. Trong khi đó ông lại dùng khái niệm từ cổ dành cho các từ Hán đơn âm trong các văn bản cổ và theo ông “trong số những từ xưa còn nên kể những từ đơn mượn ở chữ Hán (âm Hán Việt) để biểu hiện những khái niệm mà đời sau người ta chỉ dùng những từ Việt để biểu hiện thôi.” Ông đưa ra một số ví dụ như dụng (dùng), địch (cái sáo), huyền (cây đàn), hoặc (sai), ma (mài), đố (ghét), sương (rương)… (tr.28, 33). Đối với học giả Hoàng Xuân Hãn thì “từ ngữ cổ là những từ ngày nay không dùng nữa, hoặc còn dùng trong một địa phương, hoặc còn sót lại trong một thành ngữ nào đó, hoặc còn dùng với nghĩa khác nhưng có liên can” Vương Lộc đưa ra bốn tiêu chí để xác định từ cổ, theo đó: “Từ ngữ cổ là những từ ngữ: (1) Chỉ còn gặp trong các tác phẩm cổ chứ không tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, như bợ là “vay”, khứng là “chịu”, mắng là “nghe”, v.v... ; (2) Gặp trong tiếng Việt hiện đại những đã thay đổi ít nhiều về mặt ngữ âm, như khách thứa là khách khứa, bàn nàn thành phàn nàn, đam thành đem, v.v… ; (3) Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ do chúng không còn dùng độc lập nữa, như han trong hỏi han, tác trong tuổi tác, le trong song le, v.v hoặc đã thay đổi hoàn toàn về ý nghĩa như đăm chiêu không phải là “bên phải, bên trái, các phía”, lịch sự không phải là “từng trải”, vốn là nghĩa cổ của các từ này; (4) Còn gặp trong tiếng Việt hiện đại nhưng khả năng kết hợp có khác so với ngày trước như ban trong các tổ hợp ban già, ban muộn, ban nghèo, ban tà, v.v...; cái trong cái rắn, cái ve, cái vẹt, v.v...; con trong con gậy, con lều, con sách, v.v... ”. Nguyễn Thanh Tùng chia từ cổ làm sáu loại: (1) Những từ xưa được dùng độc lập, nay chỉ tồn tại như là yếu tố mất nghĩa, mờ nghĩa trong các tổ 2 hợp từ như dể, ghẽ, rệt; (2) Những từ đã biến mất hoàn toàn trong kho từ vựng hiện đại, không còn được sử dụng nữa, chỉ tồn tại trong các văn bản cổ, như: mựa, bui, cày cạy; (3) Những từ chỉ còn dùng hạn chế trong các phương ngữ, thành ngữ, tục ngữ, thuật ngữ, như rồi trong ăn không ngồi rồi; (4) Những từ xưa là song tiết, nay đã rụng mất tiền tố, chỉ còn đơn tiết, như: la đá, bà cóc; (5) Những từ Hán xưa dùng độc lập nay không dùng độc lập nữa mà chỉ là những yếu tố Hán Việt dùng để cấu tạo từ; (6) Những từ còn xuất hiện nguyên dạng, nhưng nghĩa cũ đã mất, nay dùng theo nghĩa mới khác với nghĩa cũ, như: cặn kẽ (ân cần chu đáo/ sát sao, tỉ mỉ). Nguyễn Ngọc San cho rằng từ cổ “Là những từ đã được lưu lại trong các văn bản viết cổ hay văn bản miệng cổ (ca dao, tục ngữ) mà hiện nay không còn được sử dụng nữa…”, chúng bao gồm các từ cổ đã hoàn toàn biến mất trong kho từ vựng hiện đại; hay là từ vốn là “Những yếu tố mất nghĩa khi chúng nằm trong các tổ hợp song tiết đẳng lập và được xác định giá trị trong mối tương quan với yếu tố kia". Trong cuốn Từ điển từ Việt cổ, tác giả coi từ Việt cổ là những từ ngữ thuần Việt. Trong luận văn này, sau khi đã xem xét, tham khảo một số định nghĩa về từ cổ của các tác giả đi trước, chúng tôi chọn và thống nhất quan điểm về từ cổ với tác giả Nguyễn Thiện Giáp đó là: “Từ ngữ cổ là những từ ngữ biểu thị những đối tượng trong tiếng Việt hiện nay có các từ đồng nghĩa tương ứng. Chính sự xuất hiện của những từ đồng nghĩa tương ứng này làm cho chúng trở nên lỗi thời.” Từ cổ gồm hai loại: những từ ngữ cổ đã hoàn toàn biến khỏi ngôn ngữ văn học hiện đại; những từ ngữ còn để lại dấu vết trong tiếng Việt hiện đại nhưng ý nghĩa đã bị lu mờ vì chúng không được dùng độc lập nữa. Chúng tôi nêu ra một số nhìn nhận về từ cổ của các học giả có uy tín trong lĩnh vực nghiên cứu từ cổ để thấy rằng, dù có thể có quan điểm khác nhau, tất cả những gì mà họ nghiên cứu, diễn giải đã giúp chúng ta có sự hiểu biết sâu sắc hơn về nguồn gốc của tiếng mẹ đẻ và tạo một nền tảng cơ sở để 3 chúng ta nghiên cứu sâu rộng hơn các lĩnh vực ngôn ngữ liên quan. Trong đề tài của mình, chúng tôi chỉ tập trung vào khảo cứu từ Việt cổ trên một số văn bản trong thời điểm cụ thể là cuối thế kỷ XIX, việc xác định lại tiêu chí rõ ràng về từ cổ là điều phải làm nhưng chắc chắn sẽ kế thừa những kiến thức đã được nghiệm chứng xác đáng từ những học giả trên. Cũng cần nói thêm rằng về vấn đề nghiên cứu lịch sử từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt giai đoạn cuối thế kỷ XIX, trong thư mục, chúng ta có công trình có tính tổng quát của Lê Quang Thiêm: “Lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kỳ 1858 – 1945” (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003). Trong công trình này, tác giả đã khảo cứu các giai đoạn phát triển của từ vựng tiếng Việt từ 1858 – 1945 từ các góc độ cấu tạo, nguồn gốc, v.v…một cách tổng thể, trên cứ liệu của nhiều loại văn bản khác nhau. Đến năm 2011, một công trình nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia trọng điểm do Tác giả Đỗ Thị Bích Lài làm chủ nhiệm đã được công bố: “Tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX – 1945: Những vấn đề về từ vựng” (Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2011). Trong công trình này, nhóm tác giả khảo cứu vấn đề từ vựng tiếng Việt Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX – 1945 trên bốn phương diện: (1) Lịch sử - nguồn gốc của từ; (2) Cấu tạo – ngữ nghĩa của từ; (3) Vai trò phương tiện giao tiếp trong xã hội của tiếng Việt Nam Bộ (thể hiện qua từ vựng) và (4) Vấn đề phong cách – văn hoá.Và như vậy, đây cũng là một công trình có tính vĩ mô về từ vựng tiếng Việt trong một giai đoạn lịch sử cụ thể là cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Liên quan đến đề tài của chúng tôi còn có các công trình khác ở những mức độ ít nhiều khác nhau như các luận văn thạc sĩ, khoá luận tốt nghiệp đại học. Chúng tôi xin điểm qua một số công trình nổi bật như sau: 4 Bùi Quang Thục Anh (2011), Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX (Khảo sát qua “Gia Định báo”), KLTN, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Tp Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đức (2006), Lớp từ cổ trong tiếng Việt, LV Thạc sĩ khoa học Ngữ văn chuyên ngành Ngôn ngữ học so sánh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Lê Thuỳ Linh (2011), Khảo sát từ ngữ trong tác phẩm “Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất Hợi - 1876” của Trương Vĩnh Ký, KLTN Khoa ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Lưu Thị Hồng Mai (2010), Đặc điểm cấu tạo từ trong tiếng Việt (Qua khảo sát một số tác phẩm của nguyễn Chánh Sắt, KLTN Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh). Trịnh Thị Thơ (2011), Đặc điểm cấu tạo từ tiếng Việt đầu thế kỷ XX (Qua khảo sát báo “Nông cổ mín đàm”), KLTN Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Kim Chinh (2011), Các lớp từ xét từ gó độ nguồn gốc và phạm vi sử dụng trong các tác phẩm văn học của một số nhà văn Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – 1930, LV Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Huỳnh Ngọc Thuỳ (2008), Đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp của các hình vị gốc Hán có tần số xuất hiện thấp trong cấu tạo từ tiếng Việt, LV Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Hoàng Thị Phi Yến (2011), Vấn đề cấu tạo và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt nửa đầu thế kỷ XX qua “Việt Nam tự điển”, LV Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Khúc Thuỷ Liên (2011), Đặc điểm cấu tạo của từ tiếng Việt trong một số tác phẩm Văn học Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX, LV Thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. 5 Nguyễn Kiên Trường (2006), Tổng hợp và đánh giá tình hình nghiên cứu ngôn ngữ thời kỳ 1996 – 2006, Đề tài nghiên cứu khoa học, Viện khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Tp Hồ Chí Minh. Trương Thị Thanh Trúc (2012), Từ địa phương trong các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, KLTN Khoa văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Dương Thị My Sa (2009), Từ địa phương trong một số tác phẩm văn học Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX – Đầu thế kỷ XX, KLTN chuyên ngành Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Lê phương Thảo (2013), Đặc điểm về phong cách khẩu ngữ và phong cách ngôn ngữ viết của tiếng Việt Nam Bộ cuối thế kỷ XIX (Khảo sát qua một số văn bản văn học Nam Bộ), KLTN chuyên ngành Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Nguyễn Thị Phượng Uyên (2013), Về cách giải nghĩa từ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX (Qua quyển tự điển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của ), LV Thạc sĩ chuyên ngành Ngôn ngữ học. Tuy nhiên, như đã nói, cho đến nay, chưa có một công trình nghiên cứu về từ cổ trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX trên cứ liệu văn bản văn học Nam Bộ giai đoạn này một cách có hệ thống, chuyên biệt. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu vấn đề cấu tạo, ngữ nghĩa của từ cổ tiếng Việt cuối thế kỷ XIX trên cứ liệu văn bản văn học và báo chí Nam Bộ nhằm mục đích góp phần vào việc nghiên cứu từ vựng tiếng Việt nói chung trong tiến trình phát triển của nó, đồng thời đưa ra được những chứng cứ xác thực về sự phát triển này qua các nghiên cứu cụ thể mà đề tài của chúng tôi sẽ được thực hiện. 6 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các từ cổ trong từ vựng tiếng Việt cuối thế kỷ XIX (Khảo cứu trên một số văn bản văn học Nam Bộ giai đoạn này như tác phẩm của các tác giả Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Chánh Sắt và các báo như “Gia Định báo”, “Nông Cổ Mín Đàm”…). Việc xác định một từ có phải là từ cổ hay không là một công việc thực sự không dễ dàng đòi hỏi chúng ta phải có những tiêu chí xác đáng, thuyết phục nếu không sẽ tạo thành vấn đề gây tranh cãi. Xưa nay hễ nói đến “cổ” người ta nghĩ ngay đến tuổi thọ của vật gì đó hay nói cách khác là thời gian tồn tại của nó. Một cái gì đó được xem là cổ thì phải có thời gian tồn tại rất lâu, tối thiểu cũng phải hơn trăm năm. Nếu chỉ hiểu đơn thuần như vậy thì không ổn vì đối với ngôn ngữ có những từ đã có thời gian tồn tại rất lâu, ngay từ khi có ngôn ngữ đó nhưng chúng vẫn không được xem là từ cỗ ví dụ như cha, mẹ, anh, em, chị, nhà…Nếu chúng ta chỉ lấy tiêu chí thời gian để xác định thì cả kho từ vựng mà ta đang sử dụng trong ngôn ngữ của mình trở thành từ cổ hết. Khi chúng tôi xin phép chọn đề tài này thì cũng vướng phải khái niệm “từ cũ” trong ngôn ngữ. Một số học giả cho rằng có sự tồn tại của từ cũ và từ cổ trong ngôn ngữ và thậm chí có những cảnh báo về việc nhầm lẫn từ địa phương thành từ cổ (Nghĩa là có những từ tuy không xuất hiện trên các phương tiện truyền thông nhưng ở một địa phương nào đó người ta vẫn hay dùng). Chúng ta khẳng định một từ nào đó là từ cổ thì đòi hỏi chúng ta phải có bằng chứng chứng minh nó là từ cổ, tiêu chí nào để xác định nó là từ cổ. Trong công trình của mình chúng tôi sẽ nêu khái niệm, các tiêu chí để xác định từ cổ cũng như xóa đi những nhầm lẫn giữa từ cổ và từ hiện tại, từ cổ và từ cũ hay từ cổ và từ địa phương. 7 Ngữ liệu của đề tài nghiên cứu này, như đã nêu trên, là các văn bản văn học và báo chí Nam Bộ được xuất bản vào cuối thế kỷ XIX, ví dụ như các tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Chánh Sắt và các báo như “Gia Định báo”, “Nông Cổ Mín Đàm”, vv.... 5. Phạm vi nghiên cứu Đề tài này có phạm vi nghiên cứu là: (1) Cấu tạo từ cổ Về vấn đề cấu tạo của từ cổ chúng tôi sẽ trình bày chi tiết về cấu tạo từ xét trên các góc độ từ đơn, từ ghép, từ láy ở cả phương diện từ thuần Việt lẫn từ vay mượn căn cứ vào các định nghĩa về từ đơn, từ ghép, từ láy trong Ngôn ngữ học. (2) Ngữ nghĩa của từ cổ Đối với vấn đề ngữ nghĩa của từ, luận văn sẽ khảo cứu các loại nghĩa của từ cổ như nghĩa gốc, nghĩa phái sinh (nếu có). Bên cạnh đó luận văn cũng khảo cứu về các trường từ vựng – ngữ nghĩa của từ cổ. Các từ cổ được lấy từ các văn bản văn học, báo chí Nam Bộ xuất bản trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX cụ thể trên 150 số báo Nông Cổ Mín Đàm, 66 số Gia Định báo, các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh như Con nhà nghèo, Ngọn cỏ gió đùa, Vợ già chồng trẻ, Nặng gánh cang thường, Lòng dạ đàn bà, Một chữ tình, Chúa Tàu Kim qui, Lời thề trước miễu, tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, các tác phẩm Nghĩa hiệp kỳ duyên, Lòng người nham hiểm, Tài mạng tương đố, Hoàng Thiên bất phụ hảo tâm nhơn của Nguyễn Chánh Sắt và Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Thực hiện công trình nghiên cứu này, luận văn chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 8 - Phương pháp thống kê: Phương pháp này được dùng để thống kê các từ cổ trên hai bình diện là cấu tạo và ngữ nghĩa, từ đó đưa ra các phân tích, nhận định định chất về vấn đề khảo cứu của luận văn. - Phương pháp miêu tả, phân tích ngữ nghĩa: Phương pháp này được dùng để miêu tả, phân tích ngữ liệu khảo cứu trên hai góc độ mà luận văn đã đề cập ở trên. - Trong một chừng mực nào đó chúng tôi cũng sẽ sử dụng phương pháp so sánh lịch sử để hỗ trợ cho việc thực hiện công trình nghiên cứu của mình đối với những trường hợp cần thiết. 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa khoa học: Nghiên cứu từ cổ trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX (Trên tư liệu văn bản văn học và báo chí Nam Bộ) có ý nghĩa khoa học ở chỗ các kết quả nghiên cứu của nó góp phần bổ sung, hoàn thiện bức tranh lịch sử từ vựng tiếng Việt trong tiến trình phát triển của nó trong sự đa dạng và phong phú về ngữ liệu của các hiện thực ngôn ngữ - phương ngữ Việt Nam - mà đó cũng là một trong các nhiệm vụ của ngành từ vựng – ngữ nghĩa học tiếng Việt. - Ý nghĩa thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho những người nghiên cứu, học tập tiếng Việt từ góc độ lý luận cũng như hoạt động ứng dụng, thực tiễn. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo thì phần nội dung gồm ba chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý thuyết cơ sở Trong chương này luận văn sẽ trình bày một số khái niệm, thuật ngữ có liên quan đến các xử lí, phân tích, lí giải của đề tài luận văn như khái niệm từ và cách phân chia từ (xét từ góc độ tính tích cực và tiêu cực) đối với từ cổ và từ 9 lịch sử. Trong quá trình khảo sát chúng tôi dựa vào cách phân biệt và xác định của các tác giả cuốn: “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” (Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2000), Nxb Giáo dục (Bản tái bản), có bổ sung cách hiểu của cuốn “Từ vựng tiếng Việt” (Nguyễn Hữu Chương, Nguyễn Công Đức (1992), Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh) và cuốn “Dẫn luận ngôn ngữ học” của Nguyễn Thiện Giáp (2005), Nxb Giáo dục). Luận văn cũng sẽ cung cấp cái nhìn rõ nét về các loại từ xét từ góc độ cấu tạo cũng như nghĩa của từ, các loại nghĩa, vấn đề trường từ vựng - ngữ nghĩa. Chương 2: Cấu tạo của từ cổ trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX Trong chương 2 luận văn tập trung làm rõ lại một số vấn đề như từ cổ là từ thuần Việt (Trong đó có từ đơn, từ ghép và từ láy); từ cổ là từ vay mượn (Trong đó có từ cổ gốc Hán trên các mặt từ đơn, từ ghép, từ láy; từ cổ gốc Châu Âu đa tiết (ngẫu hợp)). Chương 3: Ngữ nghĩa của từ cổ trong tiếng Việt cuối thế kỷ XIX Trong chương 3 của luận văn, các vấn đề được tập trung khảo luận sẽ bao gồm các trường từ vựng – ngữ nghĩa của từ cổ cụ thể đối với trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ một sự vật - đồ vật, trường từ vựng chỉ các hiện tượng thiên nhiên và trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ các tên gọi, phẩm tước, quan chế cũ. Bên cạnh đó luận văn cũng bàn thêm về nghĩa gốc và vấn đề nghĩa – từ mới tương ứng (So với từ cổ) trong tiếng Việt thế kỷ XIX. 10 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT CƠ SỞ 1.1. Khái niệm về từ Nói đến ngôn ngữ không thể không có từ và các đơn vị tương đương như từ. Từ là sự tồn tại tất nhiên trong hệ thống ngôn ngữ và nghiên cứu về từ trở thành một trọng tâm của ngôn ngữ học. Và trở thành một nội dung không thể thiếu của ngôn ngữ học đại cương với hàng loạt định nghĩa được đúc kết từ những nghiên cứu cụ thể về từ ở từng ngôn ngữ và trên cơ sở đó, nó lại được áp dụng, triển khai nghiên cứu rộng rãi, liên tục ở mọi ngôn ngữ. Do từ là đối tượng được đặc biệt quan tâm nên trong ngôn ngữ học có hẳn chuyên ngành gọi là Từ vựng học. Từ vựng học nghiên cứu về từ và các đơn vị ngôn ngữ tương đương với từ. Trong khi nghiên cứu về từ cũng đã nảy sinh một số chuyên ngành nghiên cứu hẹp hơn như danh học, từ nguyên học, v.v…Danh học nghiên cứu về quy tắc, phương thức đặt tên người như tên, bí danh, bút danh, hiệu hay tên các đơn vị hành chính như làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố, tên sông, tên núi, tên hồ, tên đồng ruộng. Từ nguyên học nghiên cứu và giải thích hình thức và ý nghĩa ban đầu của các từ và những đơn vị tương đương như từ. Tuy các chuyên ngành nghiên cứu về từ rất phát triển và mang tính khoa học rất cao, nhưng trải qua một thời gian dài người ta vẫn xem việc đưa ra một khái niệm về từ là hết sức khó khăn. “Trong ngôn ngữ, đơn vị được gọi là từ có những đặc tính hết sức phức tạp. Việc nhận diện nó một cách rõ ràng là điều hoàn toàn không đơn giản.” (Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Hàm Dương, Nguyễn Công Đức (2003), Dẫn luận ngôn ngữ học). Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng người Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure (1857 - 1913) từng nói trong bài giảng của mình: “…từ, mặc dù khó định nghĩa, vẫn là một đơn vị mà trí tuệ buộc phải chấp nhận, một cái gì có địa vị trung tâm trong cơ thể của bản ngữ.” (F. 11 de Saussure – Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội – H., 1973, tr. 193). Sau Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học người Pháp Antoine Meillet trong công trình “Ngôn ngữ học lịch sử và Ngôn ngữ học đại cương” (T1, 1921; T2, 1936) đã đưa ra khái niệm: “Từ là kết quả của sự kết hợp một ý nghĩa nhất định với toàn bộ những âm tố nhất định, có thể có một công dụng ngữ pháp nhất định.” Ngoài ra, có thể liệt kê một số các định nghĩa khác về từ: - K.Buhler: “Các từ là những kí hiệu âm thanh của một ngôn ngữ được cấu tạo từ các âm vị và có thể tạo thành trường.” - E.Sapir: “Từ là một đoạn nhỏ nhất có ý nghĩa hoàn toàn độc lập và bản thân có thể làm thành một câu tối giản”. - V.Brondal: “Từ bao giờ và ở đâu cũng phải là một yếu tố của thông báo”. - F.F.Fortunatov: “Từ là bất cứ âm nào của lời nói, trong ngôn ngữ từ có một ý nghĩa khác với ý nghĩa của những âm cũng là từ khác”. - W.Schmidt: “Từ không phải là tổng số có tính số học của vật chất âm thanh và ý nghĩa mà là một chỉnh thể có tổ chức, một đơn vị kết cấu tính vật chất âm thanh và ý nghĩa”. Dù có rất nhiều khái niệm về từ và khái niệm của các nhà ngôn ngữ học được xem là tốt đến đâu cuối cùng cũng vẫn rơi vào tranh cãi vì không thỏa mãn được tính phổ quát của một định nghĩa hay khái niệm về từ. Một số lý do dẫn đến việc khó đưa ra một khái niệm hay định nghĩa về từ có thể kể đến là: + Sự khác nhau về cấu tạo. Ví dụ trong tiếng Việt của ta sách, vở, nhà, cửa, bàn, ghế…được xem là những từ riêng biệt có ý nghĩa trong khi vẫn tồn tại những kết cấu cũng được cho là từ như sách vở, bàn ghế, nhà cửa…vấn đề càng phức tạp hơn khi chúng ta gặp chợ, búa, bạn, bè và chợ búa, bạn bè. 12

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net