Xu hướng chọn nghề nghiệp của sinh viên việt nam và indonesia trong bối cảnh hội nhập asean

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Xu hướng chọn nghề nghiệp của sinh viên việt nam và indonesia trong bối cảnh hội nhập asean

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA: ĐÔNG PHƯƠNG HỌC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG NĂM 2016 Tên công trình: XU HƯỚNG CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM VÀ INDONESIA TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP ASEAN Sinh viên thực hiện: Chủ nhiệm: Thành Adam Krishna (Lớp IndK11, 2011-2015) Thành viên: Nguyễn Thị Nghĩa (Lớp IndK11, 2011-2015) Mộng Lý Thu Hiền (Lớp IndK11, 2011-2015) Phan Thị Mỹ Hiệp (Lớp IndK11, 2011-2015) Lý Ái Diễm (Lớp IndK12, 2011-2016) Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thanh Tuấn Phó Trưởng Khoa Đông Phương học MỤC LỤC TÓM TẮT NỘI DUNG ĐỀ TÀI......................................................................................... 3 MỞ ĐẦU .................................................................................................................................. 4 CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Cơ sở lý luận ...........................................................................................................12 1.1.1 Các khái niệm liên quan đến đề tài .................................................................12 1.1.2 Lựa chọn nghề nghiệp và những tính chất của nó ........................................20 1.1.3 Những đặc điểm cơ bản về tâm lý và nhân cách của sinh viên...................22 1.2 Cơ sở thực tiễn .......................................................................................................24 1.2.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên .............................................................................................................................24 1.2.2 Cộng đồng ASEAN: những thuận lợi và thách thức ....................................28 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XU HƯỚNG LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM 2.1 Vài nét về khách thể điều tra ..............................................................................36 2.2 Thực trạng xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên trong bối cảnh hội nhập ASEAN .............................................................................................................37 2.2.1 Thực trạng về ngành học của sinh viên Việt Nam........................................37 2.2.2. Sinh viên Việt Nam với ASEAN .....................................................................43 2.2.3. Định hướng nghề nghiệp..................................................................................46 CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG XU HƯỚNG LỰA CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN INDONESIA 3.1 Vài nét về khách thể điều tra ..............................................................................51 3.2 Thực trạng xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên trong bối cảnh hội nhập ASEAN .............................................................................................................52 3.2.1. Thực trạng về ngành học của sinh viên Indonesia.........................................52 1 3.2.2. Sinh viên Indonesia với ASEAN .....................................................................57 3.2.3. Định hướng nghề nghiệp..................................................................................64 CHƯƠNG 4: SO SÁNH ĐỊNH HƯỚNG CHỌN NGHỀ NGHIỆP CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM VÀ INDONESIA 4.1 Giống nhau..............................................................................................................78 4.2 Khác nhau ...............................................................................................................82 KẾT LUẬN............................................................................................................................ 85 KIẾN NGHỊ .......................................................................................................................... 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 2 TÓM TẮT NỘI DUNG ĐỀ TÀI Định hướng nghề nghiệp luôn mà một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến thành công, định hướng nghề nghiệp đúng đắn sẽ mang lại lợi ích không chỉ cho mỗi cá thể trong xã hội mà cho cả xã hội. Vì vậy, vấn đề này luôn nhận được sự quan tâm của mọi người trong xã hội. Hiện nay, xu hướng hội nhập là xu hướng chung và phổ biến nên việc định hướng phù hợp với xu hướng này là điều cần thiết. Việt Nam và Indonesia là hai nước đã gia nhập vào ASEAN và đã đưa cộng đồng kinh tế ASEAN vào triển khai và thực hiện. Điều này đã làm cho mối quan hệ giữa hai nước trở nên gần nhau hơn và tiếp cận xu hướng hội nhập chung của thế giới. Việc được trao đổi nhân lực giữa các nước trong khu vực ASEAN là vấn đề luôn nhận được sự quan tâm đông đảo của các bạn sinh viên giữa hai nước. Điều này cũng làm ảnh hưởng không ít đến xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên hai nước. Tuy nhiên, việc tìm hiểu và chuẩn bị đón nhận cho vấn đề của sinh viên hai nước có phần khác nhau. Sinh viên Việt Nam có vẻ ít quan tâm và có sự chuẩn bị ít hơn so với sinh viên Indonesia. Có lẽ sinh viên Việt Nam còn nhiều suy nghĩ bi quan về xu hướng hội nhập này. Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên Việt Nam và Indonesia có những điểm chung trong quá trình lựa chọn ngành nghề theo học đại học là đều bị chia phối từ các tác nhân bên ngoài, chủ yếu là gia đình. Tuy nhiên, sinh viên Việt Nam bị chia phối bởi các tác nhân bên ngoài nhiều hơn là các bạn sinh viên Indonesia. Điều này dẫn đến thực trạng ngành học của sinh viên hai nước có những nét khác biệt. Sinh viên Indonesia có nhiều ý kiến tích cực hơn về ngành học hiện tại của mình, còn sinh viên Việt Nam thì có vẻ bi quan và có các ý kiến tiêu cực đến ngành học của mình. Với những nguyên nhân đó, việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai của các bạn sinh viên Indonesia có phần rõ ràng hơn so với sự lúng túng của các bạn sinh viên Việt Nam. Đa số các bạn sinh viên Việt Nam đều có ý kiến sẽ tìm kiếm việc làm đáp ứng được nhu cầu sống của mình còn các bạn sinh viên Indonesia thì lựa chọn các công việc liên quan đến ngành nghề đã theo học. 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Định hướng ngành nghề là một vấn đề luôn được sự quan tâm đông đảo không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Định hướng nghề nghiệp đúng đắn sẽ đem lại nhiều lợi ích không những cho cá nhân mà cho toàn thể xã hội. Đây cũng là một trong những vấn đề của Đảng và Nhà Nước ta quan tâm. Trong nghị quyết IV Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phát huy nội lực, cần kiệm để xây dựng đất nước… Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, để đạt được mục tiêu trên, chúng ta cần một lực lượng lao động có đủ trình độ năng lực và làm chủ được công việc để đảm bảo hoàn thành tốt công việc trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nếu chúng ta không chiếm hữu được tri thức, không sáng tạo và sử dụng được thông tin trong các ngành sản xuất thì không thể thành công trong sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường. Chính vì vậy việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ văn hóa cho nhân dân, đặc biệt là việc định hướng bậc học và định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ hôm nay, chủ nhân tương lai của đất nước, cần được quan tâm hơn bao giờ hết. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Tình hình nghiên cứu trong nước Việc nghiên cứu về việc định hướng và lựa chọn nghề nghiệp của học sinh - sinh viên ở Việt Nam từ lâu đã thu hút sự chú ý của nhiều người cũng như nhiều ban ngành chức năng có liên quan. Qua nghiên cứu ban đầu của chúng tôi, có những công trình tiêu biểu có liên quan đến đề tài của chúng tôi như sau: Bài viết “Những định hướng giá trị xã hội – nghề nghiệp của sinh viên trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Phương Thảo (1991) đưa ra thực trạng khủng hoảng định hướng nghề nghiệp, trong việc tìm kiếm công ăn việc làm sau khi ra trường của sinh viên. Tác giả cho rằng đây là kết quả tất yếu của việc chuyển hệ thống đào tạo trong điều kiện chế độ quản lý từ chế độ bao cấp sang một nền kinh tế thị 4 trường. Và điều này cho thấy sự phân hóa rõ rệt các định hướng nghề nghiệp của sinh viên hiện nay. Với chủ trương của Đảng và Nhà nước, hầu như các trường THPT đều thực hiện công tác định hướng nghề nghiệp cho học sinh của mình và các trường Đại học đào tạo nghành sư phạm đều có các bài nghiên cứu khoa học về vấn đề này và được đăng tải trên các tạp chí khoa học. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng phát hành tài liệu để tham khảo như “Hướng dẫn sử dụng một số công cụ trong tư vấn - hướng nghiệp, Trung tâm Lao động - Hướng nghiệp”, “Tư vấn hướng nghiệp cho học sinh phổ thông, Trung tâm Lao động - Hướng nghiệp” vào năm 2001. Luận văn “Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của học sinh lớp 12 trường trung học phổ thông dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường (khảo sát tại tỉnh Phú Thọ)” của tác giả Trần Đình Chiến (2008) nghiên cứu thực trạng xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 trường THPT dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường và các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho HS lớp 12 trường THPT trong điều kiện KTTT hiện nay. Trong phần thực trạng, tác giả khảo sát ý kiến của học sinh lớp 12 của các trường THPT tại tỉnh Phú Thọ về thực trạng về nhận thức và xu hướng lựa chọn nghề nghiệp và ý kiến của giáo viên làm công tác hướng nghiệp về xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp 12 hiện nay cũng như ý kiến của cha mẹ đối với việc lựa chọn nghề nghiệp của HS lớp12 hiện nay. Trong phần giải pháp, tác giả đưa ra những cơ sở có tính nguyên tắc để xây dựng các biện pháp như dựa trên những đặc điểm tâm lý và nhân cách của HS THPT, sự phân hoá, cá biệt hoá HS trong hoạt động hướng nghiệp, tính hệ thống trong hoạt động GDHN, quan điểm tiếp cận hoạt động và nhân cách, tính khả thi và từ đó xây dựng bài học có nội dung giới thiệu về những lĩnh vực nghề nghiệp cụ thể, tổ chức buổi toạ đàm ở lớp với chủ đề về nghề nghiệp và lựa chọn nghề nghiệp, tổ chức cho HS tham quan tại các cơ sở sản xuất, tổ chức hội nghị để trao đổi với cha mẹ học sinh về nghề nghiệp tương lai của con em họ, lập hồ sơ hướng nghiệp chi tiết cho mỗi HS và khảo nghiệm các biện pháp trên cơ sở lấy ý kiến chuyên gia. Bài viết “Xu hướng chọn nghề nghiệp của học sinh cuối cấp trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông tỉnh Bình Dương hiện nay” của Huỳnh Văn Sơn (2011) 5 đề cập đến xu hướng chọn nghề nghiệp tương lai của học sinh cuối cấp trung học cơ sở (THCS) và học sinh trung học phổ thông (THPT) tỉnh Bình Dương. Số liệu nghiên cứu được thực hiện với 1689 học sinh trung học tại tỉnh Bình Dương gồm học sinh THCS (841) và học sinh THPT (848) trong năm học 2010 - 2011. Kết quả cho thấy có hơn 90% học sinh THPT sẽ tiếp tục học để thi tuyển vào các trường cao đẳng – đại học hoặc trung học chuyên nghiệp. Đối với bậc THCS, khoảng 68% học sinh xác định sẽ tiếp tục học để thi vào các trường cao đẳng – đại học hoặc trung học chuyên nghiệp. Ngoài ra, 51,4% học sinh cho rằng, việc hướng nghiệp cho học sinh nên thực hiện ở giai đoạn cuối cấp THCS là rất cần thiết và đáng được quan tâm. Bài viết “Định hướng giá trị nghề nghiệp của sinh viên trường Đại học Cần Thơ” của tác giả Trần Thị Phụng Hà (2014) nghiên cứu quan niệm của SV về vấn đề việc làm và định hướng nghề nghiệp của họ trong tương lai. Kết quả từ phỏng vấn bằng bảng hỏi 170 SV của 5 Khoa thuộc Trường Đại học Cần Thơ (ĐHCT) phối hợp với phỏng vấn sâu cho thấy SV ĐHCT rất lo lắng cho tương lai trước viễn cảnh thất nghiệp và phần đông SV đã tự vạch cho mình chiến lược rèn luyện thái độ và kỹ năng nghề nghiệp bằng nhiều biện pháp khác nhau. Kết quả cho thấy SV khác nhau về giới tính, ngành học, năm học, quê quán và hoàn cảnh xuất thân có định hướng nhận thức, thái độ và kỹ năng nghề nghiệp khác nhau. Nhìn chung, SV có nhận thức đúng đắn về giá trị nghề nghiệp và có ý thức trong việc tự rèn luyện nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ năng nghề cần thiết để phù hợp với yêu cầu của nhà tuyển dụng. Trước tình hình tìm kiếm việc làm khó khăn, đề tài nghiên cứu tìm hiểu định hướng của SV về giá trị nghề nghiệp và từ đó đề xuất một số giải pháp tham khảo. Tình hình nghiên cứu ở Indonesia Cũng như ở Việt Nam, ở Indonesia, đề tài định hướng nghề nghiệp cũng nhận được sự quan tâm của nhiều người. Các Viện nghiên cứu Khoa học công nghệ và các trường Đại học đều có các công trình nghiên cứu và bài viết nghiên cứu khoa học về vấn đề này. Tại Viện Nghiên cứu Khoa học Công nghệ Surabaya, đã thực hiện nhiều dự án nghiên cứu về hướng dẫn định hướng nghề nghiệp và đưa các kết quả dự án trên đưa 6 vào áp dụng trong đó có bài viết “Dss untuk rekomendasi pemilihan jurusan pada perguruan tinggi bagi siswa SMU” (DSS tu vấn lựa chọn ngành học bậc đại học cho học sinh cấp 2” của các tác giả Defi Rahmah Fatih, Entin Martiana K (2010). Công trình này nghiên cứu về việc hỗ trợ các học sinh cấp hai định hướng nghề nghiệp tương lai của mình thông qua việc thiết lập các bảng hỏi và phương pháp Fuzzy AHP để giúp học sinh định hướng được nghành nghề để theo học thông qua tính cách của học sinh. Bài viết “Perbedaan dalam mempertimbangkan faktor-faktor pengambilan keputusan pemilihan jurusan di perguruan tinggi pada remaja akhir yang mempersepsikan dirinya diasuh dengan pola asuh yang berbeda” (Sự khác biệt trong việc xem xét các yếu tố lựa chọn ngành học bậc đại học của thiếu niên) của Karina M Brahmana (2010) là một bài viết nghiên cứu về sự ảnh hưởng của phụ huynh trong việc chọn nghề nghiệp theo học của sinh viên. Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu trên 135 đối tượng là sinh viên theo học các năm cuối về kết quả chọn nghề nghiệp theo học của mình trước kia và chia làm 3 nhóm dựa trên tính cách của phụ huynh. Nhóm thứ nhất là phụ huynh là người độc đoán trong việc định hướng con cái. Nhóm thứ hai là phụ huynh chấp thuận nếu con cái có sự lý do thuyết phục và nhóm cuối cùng là phụ huynh cho học sinh tuỳ ý quyết định. Khóa luận “Analisis factor-faktor yang mempengaruhi pemilihan karir mahasiswa akuntansi”(Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên ngành kế toán) của tác giả Rahmat Fajar Ramdani (2013) cho rằng những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nghề nghiệp có liên quan đến việc cân nhắc đánh giá tài chính, sự chuyên nghiệp, các giá trị xã hội, môi trường làm việc và v.v. Khóa luận này đã khảo sát 120 sinh viên của các trường đại học ở thành phố Semarang như UNDIP, UNNES, UNISULA, UNIKA và sau đó xử lý SPSS để có được kết quả sau cùng. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều đưa ra những kết quả thú vị và đưa những giải pháp thích hợp, khả thi. Một số công trình cũng đề cập đến cơ hội và thách thức về cộng đồng kinh tế AEC và khuyến nghị nên chọn các nghành học phù hợp với bối cảnh trên. Tuy nhiên, các đề tài chuyên sâu về vấn đề vẫn chưa nhiều. 7 3. Lý do chọn đề tài, mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài Cuối năm 2015, Việt Nam sẽ gia nhập vào cộng đồng kinh tế Asean (AEC), đây là một cơ hội lớn cho Việt Nam nhưng cũng là một thách thức lớn cho chúng ta. Vì vậy việc chuẩn bị, và trang bị kỹ càng cho việc hội nhập sẽ là một lợi thế cho chúng ta khi gia nhập cộng đồng kinh tế Asean (AEC) cuối năm nay. Trong đó việc định hướng chọn ngành nghề phù hợp với bối cảnh sẽ rất cần thiết cho mọi người nhất là các bạn học sinh đang chuẩn bị bước vào môi trường Đại học, nếu được định hướng và chọn ngành nghề tốt, thì trong tương lai chúng ta sẽ năm bắt được cơ hội trong giai đoạn hội nhập kinh tế trong tương lai. Với những ý nghĩ trên, chúng tôi quyết định thưc hiện đề “Xu hướng chọn nghề nghiệp của sinh viên Việt Nam và Indonesia trong bối cảnh hội nhập ASEAN”. Trong đề tài nay, chúng tôi sẽ khảo sát xu hướng chọn nghề nghiệp của các bạn sinh viên ở Việt Nam và Indonesia để so sánh và tìm hiểu liệu việc hội nhập ASEAN có ảnh hưởng đến việc chọn nghề nghiệp theo học của học sinh, sinh viên hai nước hay không. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi dự kiến sẽ sử dụng những phương pháp nghiên cứu như sau: - Phương pháp điều tra xã hội học: Phương pháp này được sử dụng để thu thập số liệu về sở thích nghề nghiệp của sinh viên ở Việt Nam cũng như ở Indonesia thông qua qua bảng hỏi đã thiết kế sẵn kết hợp với những câu hỏi để phỏng vấn sâu. - Phương pháp phân tích định tính – định lượng: đây là phương pháp dùng để xử lí kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những thông tin kết luận từ số liệu đã thu thập được và có cái nhìn đúng đắn để đưa ra những kết luận, dự đoán xu hướng. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: đây là phương pháp rất cần thiết trong việc tổng hợp các thông tin thu thập được để đưa ra số liệu cụ thể, chính xác cho đề tài. - Phương pháp so sánh – đối chiếu: phương pháp không thể thiếu để so sánh tìm điểm giống và khác nhau trong xu hướng việc làm ở hai quốc gia. 8 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu, giới hạn của đề tài Đối tượng chính của đề tài nghiên cứu là thực trạng và xu hướng việc làm các bạn sinh viên đang theo học tại các trường đại học ở Việt Nam và Indonesia. Do quy mô của đề tài và hạn chế về mặt kinh phí nên ở Việt Nam, nhóm thực hiện đề tài giới hạn khảo sát tại các trường đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Đối với khảo sát tại ở Indonesia, chúng tôi sử dụng bảng hỏi điện tử chia sẻ trên mạng xã hội và liên hệ các bạn sinh viên Việt Nam đang theo học tại Indonesia giúp đỡ khảo sát. 6. Đóng góp mới của đề tài Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu có sự liên kết giữa các nước trong khu vực là điều cần thiết để chúng ta có thể thấy được những nét tương đồng và khác biệt giữa các nước ở các vấn đề. Nhìn lại những công trình nghiên cứu về vấn đề hướng nghiệp trước của hai nước tuy chuyên sâu nhưng vẫn chưa có sự so sánh giữa các nước với nhau. Trong tương lai, nguồn nhân lực sẽ được tự do trao đổi và ranh giới giữa các nước trong khu vực dần được xóa mờ, nên các vấn đề nghiên cứu cần phải được thực hiện có tính liên kết với các nước trong khu vực thì mới phù hợp với bối cảnh hiện tại. Với ý nghĩ đó, chúng tôi thực hiện đề tài tập trung vào việc so sánh vấn đề của hai nước để thấy sự tương đồng cũng như khác biệt. 7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn Ý nghĩa lý luận Đề tài đưa ra nhiều nhận định, nhận xét khác nhau thông qua việc thu thập ý kiến của sinh viên Việt Nam và Indonesia. Từ đó có thể đưa ra được thực trạng hiện nay của xu hướng lựa chọn việc làm của sinh viên của hai nước, sự khác nhau và sự giống nhau của hai đối tượng nghiên cứu. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả thu được của đề tài sẽ cho ta thấy được những vấn đề của sinh viên khi lựa chọn ngành nghề từ đó giúp sinh viên nhận thức được và có định hướng đúng đắng trong việc lựa chọn ngành nghề trong tương lai. Ngoài ra, kết quả có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các trường đại học. 9 8. Kết cấu của đề tài Về phần cấu trúc của đề tài, ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, nội dung của đề tài gồm nội dung như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn Trong chương này, chúng tôi tìm kiếm những khái niệm, những giải thích mang tính khoa học liên quan đến các vấn đề trong đề tài nghiên cứu để giúp người đọc có những khái niệm nhất định về những vấn đề được đề cập ở chương sau. Chương 2: Thực trạng xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên Việt Nam Trong chương thứ hai này, chúng tôi thực hiện khảo sát bằng cách sử dụng bảng hỏi phỏng vấn tại một số trường Đại học trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi thu thập được dữ liệu cần thiết, chúng tôi cùng nhau xử lý dữ liệu bằng phần mềm Excel để có tổng hợp lại số liệu đã thu thập được và nhận được những con số cụ thể cho từng vấn đề đã khảo sát hỏi. Từ đó, chúng tôi phân tích và vẽ biểu đồ phù hợp với những vấn đề đã khảo sát và trình bày trong chương. Chương 3: Thực trạng xu hướng lựa chọn nghề nghiệp của sinh viên Indonesia Đối với chương thứ ba, điều khó khăn nhất là làm sao có thể gửi những bảng hỏi của chúng tôi đến các bạn sinh viên tại Indonesia. Chúng tôi, thực hiện dịch thuật bảng hỏi thực hiện bằng tiếng Việt sang tiếng Indonesia và gửi thư điện tử đến một số bạn sinh viên Việt Nam hiện đang học tập tại các trường Đại học tại Indonesia nhờ sự trợ giúp của các bạn. Tuy nhiên việc gửi bảng khảo sát bằng giấy sẽ gây nhiều sự bất tiện nên chúng tôi chuyển những bảng khảo sát bằng giấy thành bảng khảo sát điện tử thông qua chương trình Google Form được phát triển bởi Google. Từ đó, chúng tôi gửi đi và thu thập dữ liệu khảo sát qua chương trình này. Ngoài ra, chúng tôi cũng chia sẻ bảng hỏi trên một số trang mạng xã hội và cũng nhận được một số phản hồi từ các bạn Indonesia mà chúng tôi quen biết. Sau khi dữ liệu đã được thu thập đủ số lượng cần thiết, chúng tôi cùng nhau tổng hợp, phân tích chúng và bắt đầu trình bày những số liệu bằng những biểu đồ phù hợp và bắt đầu nhận xét những biểu đồ này. Chương 4: So sánh định hướng chọn nghề nghiệp của Việt Nam và Indonesia 10 Sau khi đã tổng hợp và phân tích số liệu thu thập được ở hai chương trên, chúng tôi bắt đầu đối chiếu và thực hiện so sánh những số liệu và tìm kiếm những điểm giống và khác nhau từ đó đưa ra những nhận xét và đưa ra kết quả nghiên cứu của đề tài này. 11 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Các khái niệm liên quan đến đề tài 1.1.1.1Xu hướng Khái niệm Xu hướng có khái niệm khá phức tạp, vì vậy cũng có nhiều cách tiếp cận và nhiều cách hiểu khác nhau: Theo từ điển Tiếng Việt thì “Xu hướng” có nghĩa là “xu thế thiên về một chiều nào đó. Sự thiên về những hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài”.1 Theo đại từ điển tiếng Việt thì “xu hướng là hướng đi tới, thể hiện khá rõ thực chất của nó”. 2. Ví dụ: xu hướng chính trị, xu hướng nghề nghiệp… Theo Tâm lí học hành vi thì: “Xu hướng là một thuộc tính tâm lí điển hình của cá nhân bao hàm trong nó một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn của nó”. Tóm lại, xu hướng là một thuộc tính tâm lí học điển hình của cá nhân bao hàm trong đó một hệ thống những động lực quy định tính tích cực hoạt động của cá nhân và quy định sự lựa chọn của nó. Các mặt biểu hiện của xu hướng Theo lí thuyết hoạt động trong tâm lí học, nhân cánh của con người có bốn nhóm thuộc tính tâm lí điển hình: xu hướng, tính cách, khí chất, năng lực. Xu hướng 1 Viện khoa học xã hội Việt Nam (1992), Từ điển tiếng Việt, trang 1135 2 Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, trang 58 12 nói lên chiều hướng phát triển của nhân cách con người, bởi vì hoạt động của cá nhân trong xã hội bao giờ cũng hướng về một mục tiêu nào đó, không thể có hoạt động không có phương hướng (tức là không có mục tiêu, không có đối tượng). Sự hướng tới này được phản ánh trong tâm lí của mỗi người như là xu hướng của nhân cách. Cá nhân có thể hướng hoạt động của mình vào một sự vật cụ thể, một tri thức khoa học hoặc một tư tưởng chính trị đồng thời thúc đẩy hoạt động nhằm từng bước chiếm lĩnh chúng. Chính vì vậy nhà tâm lí học liên xô X.L Rubinstein khẳng định: “vấn đề xu hướng trước hết là câu hỏi về khuynh hướng thúc đẩy như là động cơ quy định hoạt động của con người”. Mỗi người hướng hoạt động của mình vào cái gì, điều đó tùy thuộc vào trình độ phát triển của nhận thức và tình cảm đối với cái đó. Nói tóm lại xu hướng là sự xác định mục đích mà cá nhân hướng tới đồng thời xác định hệ thống động cơ tương ứng với hoạt động của con người nhằm đạt được mục đích. Xu hướng của con người được biểu hiện ở các mặt sau: * Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người cũng rất đa dạng: nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như nhu cầu ăn, ở, mặc; còn nhu cầu tinh thần gắn liền với sự phát triển của cá nhân như nhu cầu nhận thức, lao động, giao tiếp, thẩm mĩ. * Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động. Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động, tăng tính tự giác và tích cực trong hoạt động. Vì vậy, hứng thú làm tăng hiệu quả của hoạt động, cùng với nhu cầu, hứng thú là một thành phần trong hệ thống động cơ của nhân cách. * Lí tưởng là một mục tiêu cao đẹp, một hình ảnh mẫu mực, tương đối hoàn chỉnh có sức lôi cuốn con người vươn tới nó. Ngoài ra, lí tưởng còn có ý nghĩa là ý tưởng thể hiện ý muốn của con người vươn tới một cái gì đó hoàn chỉnh nhưng chưa đạt được. * Thế giới quan là hệ thống các quan điểm về tự nhiên, xã hội và bản thân, xác định phương châm hành động của con người. Nói một cách cụ thể thì thế giới quan của cá nhân là cách nhìn nhận, xem xét, hiểu biết, đánh giá về thế giới của cá nhân. 13 * Niềm tin là một sản phẩm của thế giới quan, là kết tinh các quan điểm, tri thức, rung cảm, ý chí được con người thể nghiệm, trở thành chân lí trong mỗi cá nhân. Niềm tin tạo cho con người nghị lực, ý chí để hành động theo quan điểm của mình, là lẽ sống của con người. Các loại xu hướng Theo tâm lí học thì xu hướng được chia làm 3 loại: Xu hướng cá nhân (ích kỉ): dựa trên động cơ thỏa mãn nhu cầu cá nhân chiếm ưu thế. Xu hướng tập thể (xã hội): được hình thành trên cơ sở động cơ vì tập thể mà tính vị tha chiếm ưu thế. Xu hướng công việc được nảy sinh dựa trên cơ sở động cơ chính là nghề nghiệp: say mê, hứng thú công việc, khát vọng nhận thức, đi tìm chân lí, lí tưởng. Vai trò của xu hướng Xu hướng đóng vai trò chỉ đạo toàn bộ hoạt động tâm lí con người: nhận thức, tình cảm, ý chí, tính cách… Xu hướng đóng vai trò nội lực thôi thúc, kích thích con người hoạt động. 1.1.1.2Nghề nghiệp Khái niệm Nói một cách chung nhất thì nghề là một thuật ngữ để chỉ một hình thức lao động sản xuất nào đó trong xã hội. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nghề. Theo tác giả E.A.Klimốp thì cho rằng: “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết cho xã hội (do có sự phân công lao động xã hội mà có). Nó tạo cho con người khả năng sử dụng lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và phát triển.”3 Theo GS.TS. Nguyễn Văn Hộ thì “Nghề nghiệp như là một dạng lao động vừa mang tính xã hội (sự phân công lao động), vừa mang tính cá nhân (nhu cầu bản thân) 3 E.A.Klimốp (1975), Lựa chọn nghề như thế nào, trang 30, 100. 14 trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi hỏi để thỏa mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân”. 4 Theo đại từ điển tiếng Việt thì định nghĩa rằng “Nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội; còn nghề nghiệp là nghề nói chung”.5 Từ điển Tiếng Việt thì cho rằng: “Nghề là công việc hàng ngày làm để sinh nhai, nghề nghiệp là làm nghề để sinh sống”.6 Từ điển Lorousse của Pháp viết rằng: “Nghề nghiệp (Profession) là hoạt động thường ngày được thực hiện bởi con người nhằm tự tạo nguồn thu nhập cần thiết để tồn tại”. Theo tác giả Nguyễn Hùng thì “Những chuyên môn có những đặc điểm chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên môn và được gọi là nghề. Nghề là tập hợp một nhóm chuyên môn cùng loại, gần giống nhau. Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó con người dùng sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động vào những đối tượng cụ thể nhằm biến đổi đối tượng đó theo hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi ích của con người”.7 Từ các khái niệm khác nhau về nghề nghiệp của các tác giả đưa ra, chúng ta có thể khái quát được rằng: Nghề như một dạng lao động vừa mang tính chất xã hội, vừa mang tính chất cá nhân trong đó thì con người đóng vai trò là chủ thể trong các chuỗi hoạt động ấy nhằm thỏa mãn các yêu cầu nhất định của xã hội cũng như của cá nhân.Nghề nghiệp nào cũng bao gồm nội hàm của nó đó là một hệ thống giá trị kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Nghề là cơ sở, là nền tảng giúp cho con người phát triển từ từ để tạo dựng sự nghiệp sau này. Ngoài ra, ta cũng có thể nói rằng nghề là một dạng lao động đòi hỏi con người phải trải qua một quá trình đào tạo chuyên biệt nào đó để có những kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ 4 Nguyễn Văn Hộ (2000), Thích ứng sư phạm, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, trang 96. 5 Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội, trang 117. 6 Văn Tân (Chủ biên) (1991), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Khoa Học Xã Hội, trang 236. 7 Nguyễn Hùng (Chủ biên) (2008), Sổ tay tư vấn hướng nghiệp và chọn nghề, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, trang 21. 15 xảo để thích ứng với công việc. Xét theo một khía cạnh, một góc độ khác thì có thể nói rằng nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó trải qua quá trình đào tạo, con người có được tri thức, kỹ năng, thái độ để làm ra các sản phẩm thuộc về vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được các yêu cầu, thỏa mãn các nhu cầu của xã hội. Đặc điểm chuyên môn của nghề: Đặc điểm chuyên môn của nghề bao gồm các yếu tố cơ bản như sau: - Đối tượng lao động của nghề. - Công cụ và phương tiện lao động của nghề. - Quy trình công nghệ. - Tổ chức quá trình lao động sản xuất của nghề. - Các yêu cầu đặc trưng về tâm sinh lý của người hành nghề cũng như yêu cầu về đào tạo nghề. Phân loại nghề: Nhà khoa học Líp-man đưa ra một cách phân loại khác, trong đó, có phân biệt nghề sáng tạo và không sáng tạo. Nhiều người không đồng tình bởi cho rằng hình thức lao động nào cũng có thể mang tính sáng tạo. Về vấn đề này, đại văn hào Măc-xim Goóc-ky có một ý kiến rất chí lý rằng, nếu ta yêu thích công việc ta làm thì dù công việc đó có đơn giản đến đâu, nó cũng có thể mang ý nghĩa sáng tạo. Cũng có nhà khoa học đưa ra cách phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người lao động. Với cách phân loại này, các nghề được phân vào 8 lĩnh vực sau đây:  Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính: Những nghề này đòi hỏi con người đức tính thận trọng, chu đáo, ngăn nắp, chín chắn, tỉ mỉ. Những cán bộ, nhân viên văn phòng, đánh máy, lưu trữ, kế toán, kiểm tra, chấm công, soạn thảo công văn… chính là một số đại diện của ngành nghề này.  Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người : Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo, những người phục vụ khách 16 sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải có thái độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi mở…  Những nghề thợ (công nhân): Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng, có những người thợ làm việc trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ …), trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…), trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…  Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật: Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.  Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật: Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng lực tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.  Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học: là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic, tích lũy tri thức, 17 độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn, trung thực, bảo vệ chân lý đến cùng.  Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên: là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt, khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.  Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt: Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn định. 1.1.1.3 Việc làm Khái niệm Theo đại từ điển tiếng Việt thì “Việc làm là công việc, nghề nghiệp thường ngày để sinh sống”. Từ điển tiếng Việt của tác giả Hoàng Phê thì cho rằng: “Việc làm: công việc được giao cho làm và trả công”8. Trong luật lao động quy định tại điều 13 như sau: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Trên thực tế, việc làm được thể hiện dưới 3 hình thức: Một là làm công việc để nhận tiền lương, tiền công hoặc hiện vật cho công việc đó. Hai là làm công việc để thu lợi cho bản thân mà bản thân lại có quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu (một phần hay toàn bộ) tư liệu sản xuất để tiến hành công việc đó. 8 Hoàng Phê (chủ biên) (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa Học Xã Hội, Hà Nội. 18 Ba là làm các công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp, hoạt động kinh tế phi nông nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên khác trong gia đình có quyền sử dụng, sở hữu hoặc quản lý. Theo quan điểm của Mac thì: “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ...) để sử dụng sức lao động đó”. Tóm lại thì việc làm chính là: Đứng dưới góc độ kinh tế - xã hội thì việc làm được hiểu là các hoạt động tạo ra, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động và được xã hội thừa nhận. Đứng dưới góc độ pháp lý thì việc làm là mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm. Phân loại việc làm Tùy theo các mục đính nghiên cứu khác nhau mà người ta có thể phân chia việc làm ra thành nhiều loại.Xét theo mức độ sử dụng thời gian làm việc ta có việc làm chính và việc làm phụ. Ngoài các phân loại trên người ta còn chia việc làm thành việc làm bán thời gian, việc làm đầy đủ và việc làm có hiệu quả... Các đặc trưng của việc làm Nghiên cứu các đặc trưng của việc làm chính là việc tìm hiểu cơ cấu hoặc cấu trúc dân số có việc làm theo các tiêu chí khác nhau nhằm làm từ các khía cạnh của vấn đề việc làm, bao gồm: + Cấu trúc dân số của việc làm theo giới và tuổi. + Sự thay đổi quy mô việc làm theo vùng (nông thôn- thành thị). + Cơ cấu việc làm theo ngành kinh tế.Trong nền kinh tế quốc dân ngành kinh tế được chia làm 3 khu vực lớn. Khu vực I: ngành nông nghiệp và lâm nghiệp; khu vực II: ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, khai thác mỏ, năng lượng; khu vực III: dịch vụ. + Cơ cấu việc làm theo nghề. 19

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net