Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn lào suvănthon bupphanuvông

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn lào suvănthon bupphanuvông

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THỊ HÒA ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ VĂN LÀO SUVĂNTHON BUPPHANUVÔNG Chuyên ngành: lí luận văn học Mã số : 62.22.01.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐỨC NINH HÀ NỘI 2014 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của đề tài ......................................................................................3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................7 3. Giới hạn vấn đề nghiên cứu ......................................................................7 4. Phương pháp nghiên cứu ..........................................................................8 5. Đóng góp mới của luận án .......................................................................10 6. Cấu trúc của luận án ................................................................................11 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU............................12 1.1. Về thể loại tiểu thuyết hiện đại trong văn học Lào …………...........12 1.1.1. Lí luận về tiểu thuyết………………………………………………...12 1.1.2. Tiểu thuyết hiện đại Lào và những đặc trưng cơ bản của thể loại......18 1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết của Suvănthon ……………………………..33 1.2.1. Nghiên cứu tiểu thuyết của Suvănthon ở Lào…………......................33 1.2.2. Nghiên cứu tiểu thuyết của Suvăthon ở Việt Nam …………….........36 1.2.3. Nghiên cứu tiểu thuyết của Suvănthon ở một số nước trên thế giới...44 CHƢƠNG 2: ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC NHÂN VẬT VÀ SỰ KIỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA SUVĂNTHON ..............46 2.1. Đặc trƣng nghệ thuật tổ chức nhân vật .............................................46 2.1.1. Phân tuyến nhân vật theo lí tưởng xã hội.............................................47 2.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật người anh hùng – chiến sĩ ..................54 2.1.2.1. Huyền thoại hóa khả năng phi thường của nhân vật ........................56 2.1.2.2. Lí tưởng hóa vẻ đẹp ngoại hình và phẩm chất của nhân vật............62 2.1.2.3. Đặt nhân vật trong nhiều mối quan hệ đa chiều …. .........................66 2.2. Đặc trƣng nghệ thuật tổ chức sự kiện ................................................70 2.2.1. Kết cấu sự kiện theo biến cố lịch sử....................................................72 2.2.2. Kết cấu sự kiện theo trật tự tuyến tính.................. ..............................76 2.2.3. Bút pháp nghệ thuât tổ chức sự kiện ...................................................80 2.3. Tiểu kết ………………………………………………………………..82 2 CHƢƠNG 3: ĐẶC TRƢNG KHÔNG GIAN, THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA SUVĂNTHON ........................84 3.1. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Suvănthon ................85 3.1.1. Không gian công cộng ........................................................................87 3.1.2. Không gian chiến trường ....................................................................92 3.1.3. Không gian thiên nhiên .......................................................................98 3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Suvănthon...................101 3.2.1. Thời gian lịch sử sự kiện ...................................................................102 3.2.2. Thời gian đối sánh – quy kết .............................................................105 3.2.3. Thời gian thử thách và hi vọng .........................................................109 3.3. Tiểu kết ………………………………………………………............111 CHƢƠNG 4: ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT VÀ CÁC PHƢƠNG THỨC TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA SUVĂNTHON ..........................................................................................113 4.1. Đặc trƣng ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Suvănthon113 4.1.1. Màu sắc dân gian và Phật giáo trong ngôn ngữ tiểu thuyết ..............114 4.1. ối thoại, độc thoại nội tâm và ngôn ngữ song điệu ........119 4.2. Các phƣơng thức trần thuật trong tiểu thuyết của Suvănthon......132 4.2.1. Điểm nhìn trần thuật .........................................................................132 4.2.2.1. Điểm nhìn của người trần thuật ………………………………….134 4.2.2.2. Điểm nhìn không gian, thời gian ....................................................136 4.2.2.3. Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc ..........................................139 4.2.2. Các cấp độ trần thuật .........................................................................141 4.3. Tiểu kết ………………………………………………………………145 KẾT LUẬN ................................................................................................147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 3 MỞ ĐẦU 1. Ý nghĩa của đề tài 1.1. Việt Nam và Lào, hai nước liền kề nhau trên bán đảo Đông Dương, có nhiều mối quan hệ với nhau trong lịch sử. Song quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào chỉ có ở thời kì chống Pháp, chống Mỹ và thời kì đương đại sau khi cả hai nước hoàn toàn được giải phóng, tiến lên xây dựng cuộc sống mới trong hòa bình. Quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào ra đời trên cơ sở hai nước có cùng một cảnh ngộ, cùng kẻ thù chung, cùng một mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc vì hòa bình, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Quan hệ Việt Nam – Lào được bắt đầu từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và dần dần tình đoàn kết chiến đấu đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào được phổ biến, lan rộng, thấm sâu vào ý thức cách mạng của nhân dân hai nước. Tình hữu nghị đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào được phản ánh trong văn học rất đậm nét, để lại một dấu ấn khó quên trong tình cảm của nhân dân hai nước. Tuy vậy, nghiên cứu văn học Lào, nhất là văn học hiện đại Lào ở Việt Nam và ở các nước khác trên thế giới hãy còn ít ỏi. Diện mạo văn học hiện đại Lào chưa được các nhà khoa học Việt Nam đi sâu nghiên cứu, giới thiệu, đặc biệt là còn vắng bóng nhiều chuyên khảo về tác giả, tác phẩm, các khuynh hướng, trào lưu văn học của thời kì hiện đại. Từ thực tế đó của ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam, chúng tôi mạnh dạn chọn các sáng tác tiểu thuyết của Suvănthon Bupphanuvông để nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những bình diệ luận tiểu thuyết, những đặc trưng nghệ thuật viết tiểu thuyết của Suvănthon, góp phần nhận diện rõ hơn nền văn xuôi hiện đại cách mạng Lào. 1.2. Tiểu thuyết hiện đại Lào chính thức ra đời năm 1968 với tác phẩm đầu tay – Sỉ nọi (Bé Sỉ) – của nhà nhà văn Khămliêng Phônsêna. Có thể nói, Khămliêng Phônsêna là nhà văn có vai trò đặt nền móng cho sự ra đời của thể loại tiểu thuyết ở Lào. Tuy vậy, người có vai trò trong việc xây dựng và phát 4 triển nền tiểu thuyết hiện đại Lào lại chính là nhà văn Suvănthon. Ông là một cây bút viết khá sung sức, liên tục và thành công. Suvănthon Bupphanuvông sinh ngày 13 tháng 4 nă n Sêpôn, tỉ ạ , trong mộ . Suvănthon chịu ảnh hưởng rất nhiều từ mẹ, người đã gần gũi chăm sóc ông từ thuở bé và truyền cho ông nguồn sức sống mãnh liệt từ kho tàng văn học dân gian qua những câu chuyện kể, những bài hát ru. Từ năm 1940 đế . Năm 1945, Suvă n o đ ng th nh đ ng 2 nă b nh Chẳmpạ . T ng 8 năm 1948, Suvănthon tr n p. Thời gian tham gia hoạt động cách mạng, ông có điều kiện sống chung với đồng chí Caysỏn Phômvihản và được truyền bá tư tưởng Chủ nghĩa Mác một cách sâu sắ ảnh chiến đấ . Năm 1960, Suvă am. Nhà văn có cơ hội tiếp xúc với nền văn học cách mạng của Việt Nam và nền văn học Xô viết qua phần dịch và giới thiệu ở Việt Nam. Suvănthon còn có nhiều dịp 5 được tiếp xúc với các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng ở Việt Nam như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi. Sau khi ố ảng và truyền thống yêu nước của dân tộ . Nhà văn tâm sự: “Trường học chính của tôi là nơi diễn ra cuộc đấu tranh cách mạng, là thực tế cuộc sống đã lăn lộn, là con đường tự học chứ không phải là các giảng đườ 19, tr.75] Sự nghiệp sáng tác của Suvănthon bắt đầu từ thời kì chố ể loại có tính chất thử bút là thơ. Bài thơ đầu tiên của ông là bài “Đất nước Lào”. Đây là một bài thơ giống như một diễn ca lịch sử, mô tả quá trình hình thành, đấu tranh và phát triển của dân tộc. Những năm đầu thời kì chống Mỹ, nhà văn viết nhiều truyện ngắn với nhiều đề tài khác nhau như đề tài người phụ nữ tham gia kháng chiến (Y tá, Một quả mìn, Những lời hứa hẹn không quên …), đề tài về sự thức tỉnh của binh sĩ Ngụy trở về với chính nghĩa (Về với mẹ, Anh em gặp lại nhau, Xin đầu hàng, Trở về với chính nghĩa…). Những truyện ngắn này, sau này được in trong tập Đất nước chúng ta (3 quyển); nội dung các truyện tuy chưa đạt đến những giá trị nội dung và nghệ thuật của thể loại truyện, kí thực sự, nhưng đó chính là những phôi thai đầu tiên, chuẩn bị cho sự ra đời của thể loại truyện, kí sau này. Năm 1972, nhà văn bắt đầu thử bút và thành công ở thể loại tiểu thuyết. Hồi tưởng lại (tập một) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Suvănthon được xuất bản năm 1972, đến năm 1974 xuất bản tập hai và đổi tên thành Hại nhân nhân hại. Đây là bộ tiểu thuyết sự kiện, cốt truyện được triển khai từ những biến cố lịch sử có thật và dựa vào cuộc đời của nhiều nhân vật lịch sử. Từ năm 1975, nhà văn cho ra đời liên tiếp nhiều bộ tiểu thuyết dài tập với nội dung và giá trị nghệ thuật cao, đánh dấu một bước tiến mới trong cuộc đời 6 sáng tác của ông. Với hai bộ tiểu thuyết Hai chị em (Tập 1: 1975, Tập 2: 1976, Tập 3: 1977) và tiểu thuyết Tiểu đoàn Hai (Tập 1,2: 1977, Tập 3: 1980, Tập 4: 1983) Suvănthon trở thành tiểu thuyết gia lớn nhất ở Lào. Viết về đề tài “Chiến tranh cách mạng”, từ năm 1982 đến năm 1987, nhà văn còn xuất bản bộ tiểu thuyết hai tập Hai bên bờ sông. Tác phẩm tái hiện lại bức tranh hiện thực Lào những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngoài ra, tác giả cũng thử bút ở đề tài “Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Lào” với hai tiểu thuyết Người con gái của Đảng và Trai Lào, gái Lào, trong đó tiểu thuyết Người con gái của Đảng (hai tập) đã được xuất bản năm 1982 - 1984. Năm 1990, ông là chủ tịch đầu tiên của Hội nhà văn Lào. Như vậy, cũng như đa số các nhà văn Lào, nhà văn Suvănthon trước hết là một người lính, là một người chiến sĩ cách mạng luôn thấm nhuần tư tưởng và đường lối của Đảng; đồng thời là một nhà văn, là người nghệ sĩ tài ba. Những thành công trong tiểu thuyết của ông chính là kết quả của sự cố gắng và niềm say mê nghệ thuật của người chiến sĩ chân chính. Sự ra đời liên tiếp nhiều bộ tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon đã góp phần tạo nên diện mạo cho nền tiểu thuyế ở Lào. Vì vậy, việc nghiên cứu tiểu thuyết của Suvănthon là rất cần thiết. 1.3. Một trong những yếu tố khẳng định tài năng và phong cách của nhà văn Suvănthon chính là những đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết với những phương thức và cách thức tổ chức độc đáo mang đặc trưng văn hóa lối sống của dân tộc Lào. Vì vậy, việc nghiên cứu đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của ông qua các bình diện nghệ thuật cụ thể trong các sáng tác là việc làm cần thiết, để qua đó, người đọc không chỉ thấy được những nét riêng trong nghệ thuật tiểu thuyết của ông, những giá trị tư tưởng được nhà văn phản ánh trong 7 tác phẩm, mà còn hiểu hơn về đặc trưng văn hóa, lối sống, phẩm cách của con người Lào. 1.4. Mặt khác, trong quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào hiện nay, đề tài nghiên cứu góp phần vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác đặc biệt Việt Nam – Lào trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có lĩnh vực văn hóa, khoa học và công nghệ của hai nước. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích của luận án là nghiên cứu các sáng tác của Suvănthon để tìm ra những đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn, để thấy được những đặc điểm của tiểu thuyết hiện đại Lào, góp phầ luận về thể loại tiểu thuyết hiện đại, một thể loại vẫn đang trong quá trình phát triển phong phú. 2.2. Trên cơ sở lí thuyết về thể loại tiểu thuyết hiện đại, luận án có nhiệm vụ phân tích, đánh giá các sáng tác tiểu thuyết của Suvănthon trên các bình diện khác nhau của thi pháp tiểu thuyết. Từ đó hệ thống hóa các đặc điểm làm nên phong cách, sắc thái tiểu thuyết của Suvănthon. 3. Giới hạn vấn đề nghiên cứu 3.1. Phạm vi văn bản Trong tổng số năm bộ tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon Bupphanuvông bao gồm: Hồi tưởng lại (2 tập: Tập 1 xuất bản năm 1972 và Tập 2 xuất bản năm 1974), Hai chị em (Tập 1: 1975, Tập 2: 1976, Tập 3: 1977), Tiểu đoàn Hai (Tập 1,2: 1977, Tập 3: 1980, Tập 4: 1983), Hai bên bờ sông (Tập 1: 1982, Tập 2: 1987), Người con gái của Đảng (Tập 1: 1982, Tập 2: 1984), đã có hai bộ tiểu thuyết được dịch ra tiếng Việt gồm: Tiểu thuyết Hai chị em do Lê Ngọ dịch năm 1978, Lý Khắc Cung hiệu đính năm 1997, Nhà xuất bản Phụ nữ; tiểu thuyết Tiểu đoàn Hai do Hùng Phi dịch năm 1984, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Chúng tôi trực tiếp khảo sát các tác phẩm đó trên cả hai thứ tiếng (tiếng Việt và tiếng Lào). 8 Ngoài ra, chúng tôi cũng khảo sát thêm một số cuốn tiểu thuyết bằng tiếng Lào của các nhà văn khác như: tiểu thuyết Sỉ nọi (Bé Sỉ) xuất bản năm 1968 của nhà văn Khămliêng Phônsêna, tiểu thuyết Con đường sống xuất bản năm 1970 của nhà văn Chănthi Đưởnsavẳn, tiểu thuyết Bão táp cuộc đời xuất bản năm 1979 của nhà văn Đao Nửa, tiểu thuyết Tình yêu xuất bản năm 1981 của nhà văn Khămliêng Phônsêna và tiểu thuyết Vượt ngục xuất bản năm 1982 của nhà văn Thoongsợp … để so sánh và đối chiếu với các tiểu thuyết của Suvănthon. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của Suvănthon được biểu hiện trên nhiều bình diện khác nhau. Luận án tập trung nghiên cứu ở ba bình diện chủ yếu và đặc sắc trong nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn, bao gồm: - Đặc trưng nghệ thuật tổ chức nhân vật và sự kiện - Đặc trưng không gian - nghệ thuật - Đặc trưng n nghệ thuật các . 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp tiếp cận thi pháp học. Theo V.Vinogradov, “thi pháp học là khoa học về các hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác phẩm của sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn học” [122, tr.5]. Như vậy, thi pháp học là câu chuyện về hình thức bên trong, hình thức mang tính quan niệm. Phương pháp này còn được hiểu là phương pháp hình thức. “Phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của chúng” [24, tr.76] Phương pháp tiếp cận thi pháp học được sử dụng trước hết trong việc định hướng nghiên cứu về Đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon. Từ góc nhìn của thi pháp, chúng tôi lựa chọn một số yếu tố mang ý nghĩa thi pháp điển hình trong nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn, đó là các 9 phạm trù: không – thời gian nghệ thuật, hình tượng nhân vật và ngôn ngữ. Ngoài ra, phương pháp tiếp cận thi pháp học còn được sử dụng khi triển khai từng vấn đề nghiên cứu trong đề tài, các vấn đề về luận thể loại qua tiểu thuyết của Suvănthon. Từ đó xác định được đặc trưng phong cách nhà văn, phong cách tiểu thuyết , đồng thời khái quát được những vấn đề có tính chấ luận về tiểu thuyết Suvănthon nói riêng và tiểu thuyết hiện đại Lào nói chung. - Phương pháp loại hình: Loại hình là “tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung những đặc trưng cơ bản nào đó” [dẫn theo 25, tr.287]. Phương pháp loại hình là phương pháp “phân loại các sự vật để xác định danh tính và ý nghĩa của chúng trong hệ thống, đồng thời nhận dạng cấu trúc của hệ thống đó” [25, tr288]. Phương pháp loại hình được sử dụng trong luận án hướng tới việc tìm hiểu cách phân tuyến nhân vật của Suvănthon trong tiểu thuyết, từ đó có thể thấy được nét đặc trưng trong nghệ thuật tổ chức nhân vật của nhà văn. Ngoài ra, phương pháp loại hình còn được vận dụng khi khảo sát các loại hình không – thời gian nghệ thuật, các cấp độ trần thuật, các tín hiệu ngôn ngữ trong tiểu thuyết của ông. - Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Phương pháp này được sử dụng khi triển khai nghiên cứu về các vấn đề thuộc phạm trù đặc trưng thể loại tiểu thuyết. Bằng phương pháp liên ngành, chúng tôi nghiên cứu các vấn đề của tiểu thuyết Suvănthon trong mối liên hệ với các yếu tố thuộc phạm trù lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ để thấy được nét đặc trưng khu biệt trong tiểu thuyết hiện đại Lào nói chung và tiểu thuyết Suvănthon nói riêng trên các phương diện: nhân vật, sự kiện, thời gian, không gian, ngôn ngữ. Đây cũng là một phương pháp nghiên cứu góp phần thể hiện được mối quan hệ giữa văn học, văn hóa, ngôn ngữ và lịch sử. - Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh được sử dụng khi nghiên cứu những đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của Suvănthon trong mối liên hệ với 10 sáng tác tiểu thuyết của một số nhà văn khác cùng thời ở Lào. Trên cơ sở những tương đồng và khác biệt, chỉ ra những đặc điểm riêng của tiểu thuyết Suvănthon và rút ra những đặc điểm mang tính phổ quát của tiểu thuyết Lào. - Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp và thao tác khác như: Phân tích, tổng hợp … nhằm làm rõ và minh xác luận điểm nghiên cứu. 5. Đóng góp mới của luận án 5.1. Nếu những công trình nghiên cứu trước đây đi vào khảo sát diện mạo chung của văn xuôi hiện đại Lào hoặc một khía cạnh nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Lào Suvănthon Bupphanuvông, thì luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn. 5.2. Luận án là công trình đầu tiên đưa ra những khái quát lí luận về đặc trưng nghệ thuật tổ chức nhân vật và sự kiện, đặc trưng không gian và thời gian nghệ thuât, đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật và phương thức trần thuật trong tiểu thuyết củ . Từ đó làm rõ điểm thống nhất trong nghệ thuật tiểu thuyết của Suvănthon là khả năng phản ánh sâu rộng mang tầm vóc sử thi trên tất cả các phương diện: nhân vật, sự kiện, không gian, thời gian, điểm nhìn ... Và khả năng kết hợp khéo léo các giá trị truyền thống và hiện đại trong cách tổ chức tác phẩm của ông. 5.3. Trên cơ sở khám phá và phát hiện những đặc trưng nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon, luận án đưa ra những kết luận có tính chất khái quát về ận tiểu thuyết hiện đại Lào trên cả hai phương diện nội dung và thi pháp thể loại. Qua đó, chúng tôi đã chỉ ra được nét đặc trưng của tiểu thuyết Lào là sự ảnh hưởng khá sâu đậm các giá trị của nền văn học truyền thống cũng như các giá trị tư tưởng của văn hóa Phật giáo. 5.4. Luận án đóng góp một cái nhìn cụ thể, toàn diện và có hệ thống về các phương diện nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon qua sự liên hệ so sánh với các tiểu thuyết của các nhà văn cùng thời ở Lào. Qua đó, công trình 11 góp phần khẳng định tài năng, phong cách và vai trò to lớn của nhà văn trong lịch sử hình thành văn xuôi hiện đại Lào nói chung và tiểu thuyết nói riêng. 5.5. Qua sự phân tích, tổng hợp những giá trị nội dung và nghệ thuật tiêu biểu trong mỗi đơn vị tác phẩm của Suvănthon, luận án đóng góp một cách nhìn khái quát về lịch sử, văn hóa và con người Lào. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận án gồm 4 chương : Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu Chương 2: Đặc trưng nghệ thuật tổ chức nhân vật và sự kiện trong tiểu thuyết của Suvănthon Chương 3: Đặc trưng không gian, nghệ thuật trong tiểu thuyết của Suvănthon Chương 4: Đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật các trong tiểu thuyết của Suvănthon 12 CHƢƠNG 1 Trong kho tàng nghiên cứu lí luận văn học Đông – Tây, vấn đề đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết vốn đã được đặt ra từ rất lâu và được nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau với nhiều thành tựu to lớn. Tuy vậy, việc tìm hiểu đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon trong nền tiểu thuyết hiện đại Lào lại là một vấn đề còn khá mới mẻ. Để việc tiếp cận, nhận thức, và làm sáng rõ những đặc trưng nghệ thuật trong tiểu thuyết của nhà văn Lào Suvănthon Bupphanuvông, ngoài việc khảo sát các sáng tác tiểu thuyết của ông thì điều cần thiết và quan trọng là phải nắm được những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài nghiên cứu. Trong chương Tổng quan này, chúng tôi đặt ra và giải quyết hai vấn đề cơ bản: 1/ Đề tài nghiên cứu từng được nghiên cứu ở những cấp độ nào? (thực tiễn) và 2/ Có những vấn đề nào liên quan đến đề tài nghiên cứu? (lí luận). Vấn đề thứ nhất thực chất là vấn đề thực tiễn nghiên cứu được thực hiện qua việc khảo sát tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước. Vấn đề thứ hai đề cập đến các vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Việc đặt ra và giải quyết những vấn đề này, mục đích là làm cơ sở cho việc lựa chọn và khảo sát các bình diện nghệ thuật làm nên đặc trưng trong phong cách tiểu thuyết của nhà văn Suvănthon được nghiên cứu cụ thể ở các chương sau. 1.1. Về thể loại tiểu thuyết hiện đại trong văn học Lào 1.1.1. Lí luận về tiểu thuyết Tiểu thuyết là một thể loại còn uyển chuyển, mềm dẻo và dường như không bị đóng khung trong những quy phạm chật hẹp như một số thể loại khác. Khái niệm tiểu thuyết hình thành dần trong quá trình phát triển của thể loại, nó được phân biệt với sử thi cổ đại, tình ca, anh hùng ca trung cổ, châm biếm trào phúng ... Tiểu thuyết luôn tìm cho mình những hình thức mới, nếu đưa ra những giới hạn, những định nghĩa thì có nghĩa là sẽ xuất hiện những 13 khả năng vi phạm những giới hạn và những định nghĩa đó. Quan điểm xác định bản chất của tiểu thuyết bằng một số đặc trưng thẩm mĩ của thể loại chứ không phải chỉ bằng một đặc trưng được xem là một sự lựa chọn đúng đắn. Bakhtin nói: “Tôi không xây dựng một định nghĩa cho một quy phạm tiểu thuyết đang tác động trong văn học (trong lịch sử văn học) như một hệ thống các dấu hiệu thể loại cố định. Nhưng tôi sẽ cố gắng tìm ra những đặc điểm cấu trúc cơ bản nhất của cái thể loại mềm mại nhất này, những đặc điểm quy định cả phương hướng biến đổi của chính bản thân nó lẫn phương hướng ảnh hưởng và tác động của nó đến toàn bộ văn học” [90, tr.36]. Và từ phương diện thi pháp, Bakhtin đã tìm thấy ba đặc điểm cơ bản làm cho tiểu thuyết khác biệt về nguyên tắc với tất cả các thể loại khác là: “1/ tính ba chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết, gắn liền với ý thức đa ngữ được thể hiện trong tiểu thuyết; 2/ sự thay đổi cơ bản các tọa độ thời gian của hình tượng văn học trong tiểu thuyết; 3/ khu vực mới, nơi xây dựng hình tượng văn chương tiểu thuyết, chính là khu vực tiếp xúc tối đa với cái hiện tại (đương thời) ở thì không hoàn thành của nó” [90, tr.36]. Milan Kundera trong Nghệ thuật tiểu thuyết cũng lí giải về các yếu tố như: đối tượng phản ánh của tiểu thuyết, con người trong tiểu thuyết, tiểu thuyết xử lí lịch sử như thế nào ... để trả lời cho câu hỏi “Tiểu thuyết là gì?”. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại thì cho rằng, đặc trưng thẩm mĩ chủ yếu của tiểu thuyết là “tính chất gần gũi với cuộc sống”, đặc trưng này “quy định những đặc trưng khác như tính “văn xuôi” của tiểu thuyết, như dung lượng lớn và bản chất tổng hợp của tiểu thuyết” [39, tr.591]. Phương Lựu trong Lí luận văn học quan tâm tìm hiểu sáu đặc trưng cơ bản của tiểu thuyết phân biệt với các thể loại văn học khác: 1/ phản ánh cuộc sống từ góc độ đời tư; 2/ chất văn xuôi; 3/ nhân vật; 4/ các yếu tố trong tác phẩm; 5/ thể loại dân chủ; 6/ khả năng tổng hợp. Lý Hoài Thu trong Lí luận văn học do Hà Minh Đức chủ biên, khi bàn về đặc trưng của tiểu thuyết lại quan tâm đến bốn yếu tố : 1/ khả năng mở 14 rộng tầm vóc hiện thực; 2/ đi sâu khám phá số phận con người; 3/ tính đa dạng về màu sắc thẩm mĩ; 4/ bản chất tổng hợp. Mặc dù mỗi nhà nghiên cứu, xuất phát từ những mục đích khác nhau đã khảo sát tiểu thuyết ở những đặc trưng khác nhau, tuy nhiên, đối với những đặc trưng thẩm mĩ mang tính đặc thù của thể loại, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những mối tương quan nhất định từ những quan điểm riêng ấy. Căn cứ vào mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tập trung khái quát sáu đặc trưng thẩm mĩ của tiểu thuyết như sau: 1. Trong mối tương quan với các thể loại khác, tiểu thuyết nổi bật lên ở khả năng phản ánh “cuộc sống toàn diện, phong phú và nhiều mặt” [39, tr.575] theo hướng tiếp xúc “gần gũi nhất với cuộc sống” [39, tr.575]. Xác định nguồn gốc của tiểu thuyết, Bakhtin cho rằng: “Tiểu thuyết ngay từ đầu đã được xây dựng không phải trong hình tượng xa cách của quá khứ tuyệt đối, mà ở khu vực tiếp xúc trực tiếp với cái hiện tại không hoàn thành ấy” [90, tr.83]. Christian Salmon trong cuộc trò chuyện với Milan Kundera về Nghệ thuật tiểu thuyết đã khẳng định : “Tiểu thuyết không phải là một lời tự thú của tác giả mà là một cuộc thăm dò cuộc sống con người trong cái thế giới đã trở thành cạm bẫy” [86, tr.13]. Là một thể loại lớn tiêu biểu cho phương thức tự sự, tiểu thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều rộng của không gian cũng như chiều dài của thời gian. Sự phá vỡ giới hạn này là một ưu thế đặc biệt của tiểu thuyết tạo điều kiện để các nhà văn mở rộng đến mức tối đa tầm vóc hiện thực trong tác phẩm của mình. Nhiều tác phẩm tiểu thuyết được coi là những pho “bách khoa toàn thư” về đời sống xã hội. Chúng ta có thể tìm thấy ở đó những vấn đề triết học, văn nghệ, chính trị, quân sự, kinh tế, đạo đức mà nhân loại hằng quan tâm, sự hình thành tính cách của một con người, những nét tinh tế, phức tạp của tâm hồn, tấn bi kịch của một cá nhân, bức tranh có quy mô sử thi của một xã hội rộng lớn, hình ảnh đầy màu sắc rực rỡ của thiên nhiên đất nước ... “Nếu nói rằng, văn học chính là cuộc đời thì điều ấy có lẽ phù hợp nhất đối với tiểu thuyết” [43, tr.190]. Tuy nhiên, một nhà sử học có 15 thể ghi chép lại những sự kiện đã xảy ra còn sự kiện trong tiểu thuyết hoàn toàn không phải là một hiện thực nguyên vẹn. Milan Kundera nói: “Tiểu thuyết khảo sát không phải hiện thực mà khảo sát cuộc sống. Và cuộc sống không phải là những gì diễn ra, cuộc sống là vùng các khả năng của con người, tất cả những gì con người có thể trở nên, tất cả những gì nó có thể. Các nhà tiểu thuyết vẽ nên tấm bản đồ cuộc sống bằng cách khám phá ra khả năng này hay khả năng khác của con người” [86, tr.21] 2. Theo đó, có thể thấy, nét đặc trưng thẩm mĩ thứ hai của tiểu thuyết là khả năng đi sâu khám phá số phận cá nhân. Milan Kundera cho rằng “mọi tiểu thuyết của mọi thời đại đều chăm chú vào bí ẩn của cái tôi” [86, tr.11]. Đây là đặc trưng làm cho tiểu thuyết khác với sử thi (anh hùng ca). 3. Hai đặc trưng thẩm mĩ nêu trên đã quy định tính văn xuôi và tính tự sự của tiểu thuyết – một đặc trưng cơ bản làm cho tiểu thuyết có sự khác biệt rõ rệt nhất so với thơ ca. Hêghen là người đầu tiên nói một cách khá sâu sắc về tính văn xuôi của thể loại tiểu thuyết. Ông cho rằng “tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại giả thiết phải có một hiện thực đã thành văn xuôi làm tiền đề cho nó”, “hiện thực trong tính khách quan văn xuôi của nó – nói theo quan điểm lí tưởng – nội dung cuộc sống thường ngày được nắm bắt ... trong sự chuyển biến và sự quá độ cuối cùng của nó” [dẫn theo 39, tr.592], tức là một sự tái hiện cuộc sống không thi vị hóa, lãng mạn hóa, lí tưởng hóa. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời đang sinh thành. Tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời bao gồm cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp và cái xấu, chất thơ và chất văn xuôi ... những màu sắc thẩm mĩ này tác động lẫn nhau, pha trộn với nhau một cách đặc biệt đến mức độ biến thành một thể toàn vẹn mới, một sự thống nhất độc đáo của những yếu tố mâu thuẫn và dường như không thể tách rời ra từng yếu tố đứng độc lập. Phẩm chất mới này của tiểu thuyết giúp ta phân biệt nó với các thể loại văn nghệ khác. Trong kịch cũng tồn tại dung hợp nhiều màu sắc thẩm mĩ nhưng 16 các màu sắc thẩm mĩ mới chỉ kết hợp với nhau chứ không pha trộn lẫn nhau như trong tiểu thuyết. 4. Nếu nhân vật trong truyện ngắn chỉ được miêu tả thông qua một “lát cắt” về số phận, thì nhân vật trong tiểu thuyết được nhà văn “đi đến tận cùng cục diện hiện sinh của anh ta” [86, tr.18] mà theo Heidegger, đặc trưng của sự sinh tồn đó là “tồn tại – trong – thế giới” [dẫn theo 86, tr.18]. Có nghĩa là, nhân vật luôn được miêu tả trong những hoàn cảnh cụ thể, nhà văn không tách nó ra khỏi hoàn cảnh một cách nhân tạo, không cô lập nó cũng như không cường điệu sức mạnh của nó. Nó miêu tả nhân vật như một con người đang trưởng thành, biến đổi và do đời dạy bảo. Khuôn khổ rộng lớn của tiểu thuyết với sự bao la, vô tận của thời gian, không gian cho phép người viết tiểu thuyết khai thác nhân vật một cách “toàn diện, tỉ mỉ theo từng bước thăng trầm của số phận” [43, tr.192]. Đặc trưng của thể loại không chỉ thuận lợi cho việc nhà văn đưa một khối lượng lớn nhân vật vào tác phẩm mà còn tạo điều kiện để nhà văn đi sâu mô tả những nếm trải của số phận. Vì vậy, khác với nhân vật sử thi, nhân vật kịch, nhân vật truyện trung cổ, thường là nhân vật hành động, nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải” [79, tr.392]. Nhân vật tiểu thuyết cũng hành động và trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhân vật còn tích cực tham gia cải tạo môi trường nhưng khi hành động nhân vật tiểu thuyết “lãnh đủ” mọi tác động của đời. Tính cách nhân vật có một sự phát triển tự thân như là trong cuộc đời thật, nhưng “nhân vật không phải là sự mô phỏng một con người sống thật. Đó là một con người tưởng tượng. Một cái tôi thử nghiệm” [86, tr.17]. Do đó, “một trong những đề tài cơ bản có tính nội tại của tiểu thuyết chính là đề tài nhân vật không tương hợp với số phận và vị thế của nó. Con người hoặc cao lớn hơn thân phận mình, hoặc nhỏ bé hơn tính người của mình. Nó không thể hoàn toàn rốt cuộc chỉ là một viên chức, một địa chủ, một lái buôn, một vị hôn thê, một kẻ cả ghen, một người cha ...” [90, tr.80]. 17 5. Về kết cấu tác phẩm. Nếu trong truyện ngắn, truyện vừa, mọi yếu tố tác phẩm được tổ chức sát với sự vận động của cốt truyện và tính cách, hầu như không có gì “thừa”, thì tiểu thuyết hoàn toàn ngược lại. Nó chứa bao nhiêu cái “thừa” so với truyện, nó bao gồm: “các suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, sự phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, sự trình bày tường tận các tiền sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người với người, về đồ vật và môi trường, và nói chung về toàn bộ tồn tại của con người ...” [79, tr.393]. Nhưng tất cả lại là những yếu tố quan trọng trong kết cấu thể loại, thể hiện chủ đề, tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Cũng như mọi loại hình nghệ thuât khác, tiểu thuyết cũng dung nạp những yếu tố ước lệ nhưng nhìn chung, nó có khuynh hướng muốn phá vỡ mọi thứ quy phạm, nguyên tắc tiên nghiệm và ít bằng lòng với những thủ pháp nghệ thuật mang tính ước lệ tượng trưng. Thông thường, người kể chuyện trong tác phẩm có vai trò là một nhân vật trung gian có nhiệm vụ miêu tả và kể lại đầu đuôi diễn biến câu chuyện. Sự tồn tại này là một ước lệ nghệ thuật cho bất cứ một hình thức tự sự nào. Tuy nhiên, trong tiểu thuyết, người kể chuyện không nhất thiết phải đứng ở vị trí của nhân vật trung gian mà tác giả có thể giao chức năng ấy cho một nhân vật nào đó trong tác phẩm. Như vậy, khoảng cách giữa người trần thuật và nội dung trần thuật được xóa bỏ, người trần thuật do đó có thể tiếp xúc, nhìn nhận các nhân vật một cách gần gũi, có thể có thái độ thân mật thậm chí suồng sã với nhân vật. Và từ đó, có thể nhìn hiện tượng từ nhiều chiều, sử dụng nhiều giọng nói, tạo ra nhiều điểm nhìn khác nhau trong tác phẩm. Chính khoảng cách gần gũi này làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại mang tính dân chủ. 6. Tiểu thuyết “là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các thể loại văn học khác” [79, tr.394]. Trong lời tựa Tấn trò đời, Balzac đã nhận xét về tiểu thuyết lịch sử của Scott: “Ông đặt vào đó tinh thần của những thời đại cũ, ông tập hợp ở đó cả kịch, đối thoại, chân 18 dung, phong cảnh, tả cảnh; ông đưa vào đó cái kì diệu và cái chân thực, những yếu tố của sử thi, ông cho sát cánh với chất thơ, tính thông tục của những ngôn ngữ tầm thường nhất” [dẫn theo 39, tr.604]. Vũ Ngọc Phan cho rằng, tiểu thuyết “như một con ong biết hút nhụy của trăm hoa, tận hưởng hương thơm và sắc nắng của bốn mùa, tiểu thuyết thế kỷ XIX và XX đã trở nên giàu có và phong phú vì biết tổng hợp vào bản thân mình những đối tượng và biện pháp miêu tả của nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau” [dẫn theo 39, tr.606]. Đỗ Đức Hiểu cũng có lời nhận xét khá sinh động: “Tiểu thuyết là thể loại sinh sau đẻ muộn. Vì vậy, nó tiếp thu những cái tốt của các thể loại đã có (anh hùng ca, thơ, kịch ..), sáng tạo thêm những yếu tố mới ... Như một “đứa con lai”, nó đẹp, nó khỏe, nó đầy sức sống” [54, tr.18]. Tiểu thuyết bao giờ cũng hướng tới sự đa dạng, muôn màu, là “một bản giao hưởng” trong khi truyện ngắn chỉ là “một khúc solo”. Nhiều thiên tài nghệ thuật đã định hình phong cách từ khả năng tổng hợp này của thể loại và do đó cũng có nhiều loại tiểu thuyết khác nhau, trường hợp nhà văn Lào Suvănthon Bupphanuvông với chất sử thi trong tiểu thuyết của ông là một minh chứng cho đặc trưng này của tiểu thuyết. Có thể thấy rằng, trong lịch sử thể loại, tiểu thuyết đã được nhận thức từ nhiều góc độ khác nhau. Những nhận thức đó đã phản ánh được trình độ phát triển nhất định của bản thân tiểu thuyết. Và mặt khác, những nhận thức đồng thời cũng là những quan niệm về tiểu thuyết ấy, lại chế ước, tác động trở lại đến sự phát triển của tiểu thuyết tạo nên những đặc trưng của thể loại. 1.1.2. Tiểu thuyết hiện đại Lào và những đặc trƣng cơ bản của thể loại Tiểu thuyết hiện đại Lào ra đời xuất phát từ nhu cầu tự thân, nội tại, từ nhu cầu phản ánh cuộc đấu tranh giải phóng của dân tộc, hoàn toàn chưa được chuẩn bị trước về mặt lí thuyết. Mặc dù, vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX, những tiền đề lí luận văn học nghệ thuật Mác – Lênin bắt đầu được phổ biến trong vùng giải phóng, 19 nhưng chỉ trong một chừng mực nhất định, các nội dung của khái niệm chưa được giải thích sâu, còn đơn giản và sơ lược. Từ sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương được ký kết, lực lượng cách mạng Lào tập trung ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phông Sa Lì, tựa lưng vào miền Bắc Việt Nam và Trung quốc, văn học Lào bắt đầu có điều kiện giao lưu tiếp xúc với văn học các nước láng giềng, văn học khu vực và trên thế giới. Nhiều học sinh, sinh viên, cán bộ chiến sĩ từ vùng giải phóng Lào ra nước ngoài đào tạo, học tập, trao đổi trên nhiều lĩnh vực khoa học, giáo dục, văn hóa, chính trị ... đã trở thành cầu nối để một số tác phẩm tiêu biểu của văn học thế giới được phổ biến ở Lào như Người mẹ (M. Gorki), Thép đã tôi thế đấy (N.A. Ôtrôpxki), Những người khốn khổ (Vichto Huygô), Eugénie Grandet (H. Balzac), Cái sân gạch (Đào Vũ) ... Và điều đặc biệt, phần lớn trong số họ, khi trở về nước đều trở thành những nhà văn chiến sĩ vừa cầm súng vừa cầm bút. Tuy vậy, thực tế đời sống và truyền thống văn học dân tộc đã quy định và chi phối quá trình tiếp thu văn học Đông – Tây trong tiểu thuyết hiện đại Lào. Thực tế, vào cuối những năm 60 của thế kỉ XX, ở Lào bắt đầu xuất hiện tầng lớp tư sản và tiểu tư sản thành thị, giai cấp công nhân cũng bắt đầu phát triển. Đời sống văn học dân gian trước đây thực sự không còn thích hợp với đối tượng công chúng mới là tầng lớp thị dân. Mặt khác, trong không khí toàn quân toàn dân, một lòng nhất tề đứng lên chống lại những âm mưu tàn bạo của đế quốc Mỹ, với biết bao sự kiện lịch sử đi qua và biết bao tấm gương anh dũng kiên cường đã ngã xuống, thì văn xuôi trở thành thể loại phù hợp hơn thơ ca bởi nó có khả năng ghi nhận hết thảy các sự cố, có thể miêu tả các sự kiện lịch sử một cách tỉ mỉ và nó có thể dung nạp nhiều tình tiết, nhiều biến cố, nhiều cuộc đời với nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau vào trong một chỉnh thể nghệ thuật (nhất là tiểu thuyết). Vì vậy, năm 1965, truyện ngắn Lào chính thức ra đời với hai tác phẩm Sóng Mê Kông 20

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net