Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, từ thực tiễn quận ngũ hành sơn, thành phố đà nẵng

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN THỌ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM VĂN THỌ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.VŨ CÔNG GIAO HÀ NỘI, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Học viên xin cam đoan luận văn “Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Vũ Công Giao. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. Học viên Phạm Văn Thọ MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ......................................................................................................8 1.1. Khái niệm, biểu hiện và đặc điểm của làng nghề truyền thống ...........................8 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ..........................................................................................................................1 5 1.3. Khung pháp luật hiện hành của Việt Nam về quản lý làng nghề truyền thống .19 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...25 2.1. Lịch sử phát triển, đặc điểm và những vấn đề đang đặt ra với làng nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng....................................................25 2.2. Thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng 5 năm gần đây .................................................32 2.3. Đánh giá chung về những kết quả, hạn chế trong quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng trong 5 năm gần đây ...................................................................................................................................45 2.4. Những kinh nghiệm và vấn đề đặt ra với quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng ........................53 CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.............................................................................59 3.1. Các quan điểm ....................................................................................................59 3.2. Các giải pháp ......................................................................................................60 KẾT LUẬN ..............................................................................................................74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN BQL Ban quản lý BVMT Bảo vệ môi trường CNH, HĐH Công nghiệp hóa - hiện đại hóa CN-TTCN Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp dBA decibel ĐKKD Đăng ký kinh doanh Fe Độ sắt trong nước GTSX Giá trị sản xuất ha héc - ta HCL Axit clohydric HĐND Hội đồng Nhân dân KHXH Khoa học xã hội LĐ-TB&XH Lao động -Thương binh và Xã hội NHS Ngũ Hành Sơn NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn NO3 Nitrat QLNN Quản lý nhà nước Pb Tổng độ chì trong nước pH Chỉ số các ion hyđrô trong nước SXKD Sản xuất kinh doanh TCCP Tiêu chuẩn cho phép TNMT Tài nguyên Môi trường TPĐN Thành phố Đà Nẵng UBND Ủy ban Nhân dân VH – KT - XH Văn hóa - Kinh tế - Xã hội Zn Độ kẽm trong nước DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU S T ố r 2T a 2 .h 8 T 2h 2 .ố 8 22nB 3 . ản 0 2B 3 . ản 1 2B 3 . ản 8 2B 3 . ản 9 2K 4 . ết 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam vốn có truyền thống lâu đời. Truyền thống đó gắn liền với tên những làng nghề, phố nghề và được biểu hiện bằng sản phẩm độc đáo, tinh xảo, hoàn mỹ. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam có nét riêng và độc đáo, thể hiện qua tên sản phẩm kèm theo tên làng làm ra nó như: làng gốm sứ Bát Tràng; làng lụa Vạn Phúc; làng nghề điêu khắc đá Ngũ Hành Sơn… Làng nghề thủ công Việt Nam có lịch sử phát triển hàng ngàn năm, đến đầu thế kỷ XI sản phẩm thủ công của nước ta bắt đầu xuất khẩu và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XIII. Cũng trong thời kỳ này đã hình thành một số lượng lớn làng nghề thủ công ở Việt Nam. Làng nghề Việt Nam không chỉ đóng góp cho sự phát triển đất nước mà còn là môi trường văn hoá, kinh tế, xã hội (VH-KT-XH) và công nghệ truyền thống lâu đời. Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, việc phát triển kinh tế làng nghề là giải pháp quan trọng nhằm huy động tối đa các nguồn lực có sẳn trong nông thôn như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên liệu, phế phẩm công nghiệp… vào quá trình sản xuất kinh doanh (SXKD), đồng thời khai thác có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn vốn trong nhân dân và những kỹ năng, kỹ xảo của người lao động. Sản phẩm thủ công của làng nghề đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và tâm linh của người dân Việt Nam và cả du khách ngoài nước. Trong nền kinh tế mở với nhiều thành phần kinh tế thì làng nghề có thể phát huy mạnh mẽ tiềm năng lợi thế của mình để sản xuất ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Quá trình chuyển dịch cơ cấu làng nghề theo cơ chế thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã từng bước khơi dậy được nhiều nguồn lực, giải quyết nhiều lao động dư thừa ở nông thôn, thu hút hàng ngàn lao động có tay nghề khá cao. Kèm với việc phát triển làng nghề đã kéo theo nhiều ngành nghề dịch vụ liên quan và tạo thêm nhiều việc làm mới. 1 Không chỉ vậy, bảo tồn và phát triền làng nghề còn là giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc, văn minh nhân loại, làm tăng thêm những giá trị văn hóa truyền thống trong một thế giới đa phương tiện thông tin và đầy biến động như hiện nay. Thành phố Đà Nẵng được xem là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung - Tây Nguyên. Cùng với quá trình phát triển đô thị nhanh, vẫn còn những làng quê, làng nghề nông thôn mang một nét riêng của Đà Nẵng như làng nghề điêu khắc đá Ngũ Hành Sơn, làng chiếu Cẩm Nê, làng nước mắm Nam Ô, bánh tráng Túy Loan, bánh khô mè Bà Liểu... Trong tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, kinh tế làng nghề Đà Nẵng đã đóng góp không nhỏ trong tổng sản phẩm nội địa và giải quyết tạo việc làm cho hàng ngàn lao động của thành phố. Phát triển kinh tế làng nghề được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình phát triển KT-XH của Đảng bộ và chính quyền quận Ngũ Hành Sơn cũng như Đảng bộ và chính quyền thành phố Đà Nẵng, góp phần xây dựng thành phố giàu mạnh, văn minh, hiện đại; xây dựng Đà Nẵng trở thành một trong những trung tâm thương mại, du lịch, dịch vụ lớn của cả nước; phấn đấu là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH mà Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16/10/2003 của Bộ Chính trị đã đề ra. Là một quận, huyện tập trung nhiều làng nghề truyền thống của thành phố Đà Nẵng, trong thời gian qua, Đảng bộ và chính quyền quận Ngũ Hành Sơn đã có nhiều chủ trương, giải pháp khai thác tối đa lợi thế của Làng nghề truyền thống điêu khắc đá mà đã hình thành từ hơn 400 năm qua. Cùng với những nỗ lực của các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh (SXKD) trong làng nghề, sản phẩm điêu khắc đá của làng nghề không chỉ được nhân dân trong nước, mà còn được nhiều du khách ngoại quốc ưa chuộng. Sản phẩm nghệ thuật của làng nghề gắn liền với tên tuổi quần thể danh lam thắng cảnh nổi tiếng Ngũ Hành Sơn được giới chuyên môn xếp vào hạng nhất nhì của ngành du lịch Việt Nam. 2 Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong những năm gần đây, quá trình phát triển làng nghề điêu khắc đá ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng còn những mặt hạn chế nhất định, chưa tương xứng với lợi thế và tiềm năng của nó. Quản lý nhà nước đối với làng nghề còn nhiều mặt hạn chế, chưa theo kịp với các yêu cầu của tình hình mới như đảm bảo việc sản xuất phải thân thiện với môi trường, văn minh thương mại, phù hợp pháp luật. Để làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước phát triển một cách bền vững, phát huy hết tiềm năng, đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Đà Nẵng, cần phải có giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế hiện nay, trong đó bao gồm những tồn tại, hạn chế liên quan đến quản lý nhà nước với làng nghề. Bối cảnh đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu từ thực tiễn cơ sở. Học viên được sinh ra và lớn lên tại quận Ngũ Hành Sơn, được chứng kiến quá trình phát triển của làng nghề đá mỹ nghệ; quản lý Nhà nước đối với làng nghề trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn là đòi hỏi khách quan và cần thiết. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống, từ thực tiễn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình, với mong muốn tìm ra các giải pháp khắc phục những mặt hạn chế, tồn tại; qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của làng nghề truyền thống ở địa phương cũng như các làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ khác ở nước ta theo hướng ổn định, bền vững, phù hợp với định hướng của Đảng và Nhà nước trong xu thế hội nhập hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua ở nước ta đã có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến làng nghề truyền thống nói chung, quản lý nhà nước với làng nghề truyền thống nói riêng, trong đó có những công trình tiêu biểu như sau: - Dương Bá Phượng (2001): “Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá trình CNH”, Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội. 3 - Mai Thế Hởn, Hoàng Ngọc Hòa, Vũ Phúc (2003): “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và kinh tế nông thôn”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Thị Tươi (2003): “Ô nhiễm môi trường làng nghề: “Bài toán khó”, Thời báo Tài chính Việt Nam. - Trần Minh Yến “Làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, sách chuyên khảo, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004. - Lưu Duy Dần (2009): “Làng nghề truyền thồng từ góc nhìn văn hóa”, Hiệp hội làng nghề Việt Nam. - Nguyễn Cửu Loan (2009): “Đồng hành cùng làng nghề Việt Nam trước khúc quanh suy thoái”, Hiệp hội làng nghề Việt Nam. - Trương Minh Hằng (2012) “Tổng tập nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam”, NXB Khoa học xã hội, Viện nghiên cứu văn hoá. - Nguyễn Thị Lan Hương (2008), Làng nghề ở Thanh Hoá trong hội nhập kinh tế quốc tế, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. - Trần Thị Mẫn (2016), Quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật học, Học viên KHXH, Đà Nẵng. Những công trình nghiên cứu nêu trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông tin lớn về làng nghề truyền thống ở nước ta. Đây là những tư liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn này, trong đó đặc biệt là luận văn của Trần Thị Mẫn. Tuy nhiên cho đến nay, các công trình nghiên cứu nêu trên mới chỉ đề cập đến làng nghề truyền thống nói chung, chưa tập trung nghiên cứu sâu về quản lý Nhà nước đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ. Thêm vào đó, các vấn đề được phân tích chủ yếu về tổ chức sản xuất và văn hoá làng nghề, vấn đề quản lý nhà nước (QLNN) với làng nghề khá mờ nhạt. Riêng luận văn của Thị Mẫn, mặc 4 dù trực tiếp đề cập đến QLNN với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở Đà Nẵng song do thực hiện từ năm 2016 nên đến nay đã có nhiều thông tin, văn bản chính sách, pháp luật không còn cập nhật. Trước những đòi hỏi của thực tiễn, cần phải tăng cường quản lý Nhà nước đối với làng nghề truyền thống. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài luận văn là cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là phân tích thực trạng QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với Làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng nói riêng, trên cả nước nói chung . 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, các nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về QLNN đối với làng nghề truyền thống nói chung, làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ nói riêng ở nước ta. - Khảo sát, phân tích thực trạng QLNN đối với làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm xây dựng làng nghề đá mỹ nghệ Non nước quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng phát triển bền vững, tôn vinh các giá trị truyền thống, mang bản sắc vùng miền, thân thiện với môi trường và văn minh trong thương mại. - Đề xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực 5 trạng QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn liên quan đến QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ, không đi sâu nghiên cúu các vấn đề khác như truyền thống, văn hoá, cấu trúc, tổ chức… của các làng nghề. - Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, không mở rộng đến các làng nghề dạng này ở các địa phương khác. + Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ Non Nước ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng trong vòng 5 năm trở lại đây (2013-2018). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Về phương pháp luận, Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin. Về phương pháp nghiên cứu, Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các số liệu, dữ liệu trong các công trình nghiên cứu đã công bố, các báo cáo của cơ quan chức năng nhà nước địa phương, các văn bản pháp luật của nhà nước…để làm rõ các vấn đề nghiên cứu đặt ra. Thêm vào đó, với tư cách là một cán bộ đang làm việc tại đia phương, tác giả còn sử dụng phương pháp quan sát thực tế để làm rõ các vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện luận văn này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu toàn diện và cập nhật về QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành 6 Sơn, thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, luận văn cung cấp nhiều kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo với việc nâng cao hiệu quả QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng và ở các địa phương khác của nước ta trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo cho chính quyền quận Ngũ Hành Sơn và thành phố Đà Nẵng trong việc nâng cao hiệu quả QLNN với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở địa phương. Luận văn góp phần tăng cường QLNN đối với làng nghề truyền thống đá mỹ nghệ ở quận Ngũ Hành Sơn là tất yếu, khách quan, đúng định hướng trong quá trình CNH, HĐH; làm cơ sở cho Quận ủy, UBND, các ban, ngành liên quan của quận Ngũ Hành Sơn có các định hướng và các giải pháp khoa học, thiết thực để đẩy mạnh phát triển làng nghề nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quận theo hướng dịch vụ - du lịch - công - nông nghiệp, từng bước xây dựng quận Ngũ Hành Sơn giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về an ninh quốc phòng, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và khung pháp luật về quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ở Việt Nam hiện nay. - Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về làng nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng - Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với làng nghề truyền thống ở quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHUNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 1.1. Khái niệm, biểu hiện và đặc điểm của làng nghề truyền thống 1.1.1. Khái niệm làng nghề truyền thống Lịch sử phát triển của làng nghề Việt Nam gắn liền với lịch sử phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, sự tồn tại và phát triển của làng nghề đồng hành với quá trình phát triển của làng, xã nông thôn, và trong một số trường hợp, là các đô thị của Việt Nam. Đó là một quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu đời của những người thợ, quá trình phát triển của tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn và thành thị mà qua đó không ít làng nghề đã có lịch sử phát triển hàng ngàn năm và được truyền qua nhiều thế hệ. Đến đầu thế kỷ XI sản phẩm làng nghề nước ta bắt đầu xuất khẩu và phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ XIII. Nhiều làng nghề là những chứng tích kinh tế, văn hoá quan trọng, thậm chí có nghề được nâng lên thành “di sản vật thể”. Đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các quan niệm khác nhau về làng nghề truyền thống, song những quan niệm sau đây được nhiều người quan tâm và chấp nhận nhất: Quan niệm thứ nhất: Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, làng nghề được hiểu là một địa phương trong khi vẫn một số nghề phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ…) song nổi trội về một nghề cổ truyền, tinh xảo với một lực lượng lao động thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường hội (cơ cấu tổ chức), có ông Trùm, ông Phó cả...cùng một số thợ và phó nhỏ làm việc chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng có tính mỹ thuật, đã trở thành sản phẩm hàng hoá. Quan niệm thứ hai: Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Vượng thì làng nghề 8 là làng cổ truyền làm nghề thủ công, dù ở đó không nhất thiết tất cả dân làng đều sản xuất hàng thủ công và người thợ thủ công nhiều trường hợp cũng đồng thời là người làm nghề nông (nông dân). Tuy nhiên, do yêu cầu chuyên môn hoá cao đã tạo ra những người thợ chuyên sản xuất truyền thống ngay tại làng quê của mình hay ở làng nghề, phố nghề nơi khác. Nói đến làng nghề thủ công truyền thống tức là nói nhiều mặt, trong cả không gian và thời gian, nghĩa là quan tâm đến tính hệ thống toàn diện của làng nghề đó, trong đó yếu tố quyết định là nghệ nhân, sản phẩm, kỹ thuật sản xuất và thủ pháp nghệ thuật [39, tr.13]. Quan niệm thứ ba: Theo Tiến sĩ Dương Bá Phượng thì làng nghề là làng ở nông thôn có một (hay một số) nghề thủ công tách hẳn khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập [23, tr.13-14]. Như vậy có hai yếu tố của làng nghề là “làng” và “nghề”, trong đó nghề thủ công đã tách ra khỏi ngành nông nghiệp và kinh doanh độc lập. Quan niệm thứ tư: Một số nhà nghiên cứu cho rằng làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, nơi quy tụ các nghệ nhân trong nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề, giữa các hộ có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán sản phẩm theo kiểu phường hội có cùng tổ nghề. Những quan niệm nêu trên đã phần nào cho thấy các đặc trưng cơ bản, song đều chưa phản ánh đầy đủ tính chất, đặc điểm của làng nghề, chưa thể hiện được sự khác biệt giữa làng nghề nông thôn với những trung tâm sản xuất thủ công nghiệp ở thành thị, thị trấn. Về mặt pháp lý, Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12/4/2018 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn quy định nội dung và các tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống, theo đó: Nghề truyền thống là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính chất riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc đang có nguy cơ bị mai một hoặc thất truyền. Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các 9 hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Làng nghề truyền thống là làng có nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang được tiếp tục phát triển tính đến thời điểm đề nghị công nhận; nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề. Làng nghề truyền thống phải có đủ 3 dấu hiệu quy định tại mục 3, Điều 5 Nghị định số 52/2018/NĐ-Chính phủ, ngày 12/4/2018 của Chính phủ [29, tr.2]. Từ các quan niệm trên cho thấy làng nghề được cấu thành bởi hai yếu tố là làng và nghề. Song, không phải bất cứ quy mô nào của nghề trong làng cũng gọi nó là làng nghề mà việc công nhận làng nghề ở đây phải xét đến cả hai mặt là định lượng và định tính. Xét về mặt định lượng thì một (hay nhiều) nghề trong làng phải phát triển đạt đến một quy mô nhất định và có tính ổn định, lâu dài vì điểm xuất phát của làng nghề là làng gắn với nông nghiệp nên quy mô làm nghề của làng đó phải phát triển đến mức độ nhất định mới được gọi là làng nghề. Xét về mặt định tính thì đặc điểm của làng nghề phải có sự khác biệt so với làng thuần nông hoặc so với phố nghề của thành thị. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, trong làng nghề các công nghệ sản xuất của nhiều nghề không còn hoàn toàn là thủ công mà có nhiều nghề, nhiều công đoạn sản xuất theo quy trình hiện đại được áp dụng những kỹ thuật tiên tiến với những máy móc hiện đại thay cho sức người với độ tinh xảo kỹ thuật cao, đồng thời trong làng nghề xuất hiện nhiều hộ, nhiều cơ sở chuyên làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho các hộ, các cơ sở chuyên làm nghề. Do vậy, việc xác định sự phát triển của làng nghề phải tính đến quy mô làng về số hộ, số cơ sở, số lao động tham gia vào các nghề, trình độ kỹ thuật của làng nghề, thị trường đầu vào, đầu ra cho làng nghề, thu nhập từ hoạt động kinh tế của làng nghề, hoạt động xã hội của làng nghề… 10 1.1.2. Phân loại làng nghề truyền thống ở Việt Nam Làng nghề ở nước ta rất phong phú và đa dạng. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu và nhu cầu quản lý có các cách phân loại làng nghề khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại có những cách phân loại làng nghề phổ biến như sau: - Phân loại theo thời gian hình thành và phát triển của làng nghề: Làng nghề truyền thống là làng nghề có nghề truyền thống được hình thành lâu đời, trải qua thử thách thời gian vẫn được duy trì, phát triển và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Sản phẩm của làng nghề truyền thống có tính độc đáo, riêng biệt và đòi hỏi kỹ năng, kỹ xảo cao được truyền nghề từ đời này sang đời khác, trước hết là sự truyền nghề ở trong nội bộ dòng tộc. Theo cách phân loại này có các làng nghề như làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), làng nghề tranh dân gian Đông Hồ (Bắc Ninh), làng nghề đúc lư hương ở Tân Hoà Đông (thành phố Hồ Chí Minh), làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước, thành phố Đà Nẵng... - Phân loại theo cách thức tổ chức sản xuất, theo số lượng nghề: Theo cách phân loại này có làng chuyên nghề và làng đa nghề. + Làng chuyên nghề là những làng nghề mà ngoài nghề nông ra có nhiều hộ trong một làng cùng tham gia làm một nghề khác với trình độ chuyên môn hoá cao, mang tính chất truyền nghề từ đời này sang đời khác, gọi là “nghề của làng”, ví dụ như làng dệt Thái Phương (Hưng Hà, Thái Bình), làng Chạm bạc Đồng Xuân (Kiến Xương, Thái Bình), làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận)… Làng chuyên nghề mang tính chất truyền nghề, vì vậy việc tổ chức sản xuất thường theo hộ gia đình hoặc theo dòng họ. Các hộ gia đình trong làng chuyên nghề tự lo địa điểm, công cụ sản xuất, bố trí lao động...song thường có sự liên kết nhau theo nhóm, trong một nhóm có hộ đứng ra làm vai trò trung tâm. Sự liên kết của các nhóm dựa trên cơ sở lợi ích kinh tế, dưới các hình thức như mua nguyên liệu, bán thành phẩm, gia công từng công đoạn hoặc toàn bộ quy trình công nghệ để tạo ra sản phẩm cuối cùng. Hiện nay, trong làng chuyên nghề phần lớn các hộ đứng ra làm vai trò trung tâm, trong đó nhiều hộ làm các công 11 việc khép kín toàn bộ quá trình sản xuất, tái sản xuất, còn một số hộ chỉ làm dịch vụ một hoặc hai khâu trong các công đoạn sản xuất. Làng chuyên nghề đòi hỏi công nghệ sản xuất tương đối phức tạp, thường có bí quyết nghề nghiệp, mang tính chất “truyền nghề” nhiều hơn là “dạy nghề”. Vì vậy, trong làng thường xuất hiện đội ngũ “thợ đầu đàn”, “thợ cả” hay “nghệ nhân” có khả năng hướng dẫn kỹ thuật, truyền nghề, sáng tác mẫu mã mới hoặc cải tiến những khâu quan trọng. + Làng đa nghề là những làng nghề mà ngoài nghề nông còn có một số hoặc nhiều nghề sản xuất, kinh doanh khác. Làng đa nghề cũng được tổ chức theo dòng họ, chòm xóm hoặc một số người có cùng một tay nghề tương đương. Thông thường làng đa nghề có quy mô sản xuất nhỏ, sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, sản phẩm làm ra tiêu thụ ở thị trường địa phương, thậm chí làm ngày nào bán ngày đó. Vì vậy, hộ là đơn vị sản xuất khép kín, tự mua nguyên liệu, tự hoạch toán, tự sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, do đặc điểm của làng đa nghề nên người lao động không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và sự hợp tác giữa các thành viên trong làng không đòi hỏi chặt chẽ. - Phân theo trình độ kỹ thuật của làng nghề: Theo cách phân loại này có làng nghề làm nghề có kỹ thuật đơn giản và làng nghề làm nghề có kỹ thuật phức tạp. + Làng nghề làm nghề có kỹ thuật đơn giản như: đan lát, chế biến lương thực, thực phẩm, làm gạch, nung vôi... Sản phẩm của các làng nghề này có tính chất thông dụng, loại làng nghề này phù hợp với nền kinh tế tự cung, tự cấp. + Làng nghề làm nghề có kỹ thuật phức tạp như kim hoàn, đúc đồng, khảm gỗ, điêu khắc đá, thêu dệt... Những nghề này không chỉ có kỹ thuật phức tạp mà đòi hỏi sự khéo léo. Sản phẩm làm ra vừa có giá trị kinh tế cao, vừa có giá trị nghệ thuật lớn. 1.1.3. Đặc điểm cơ bản của làng nghề truyền thống ở Việt Nam Làng nghề không chỉ là môi trường kinh tế mà còn là môi trường xã hội và văn hoá. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống vừa là những sản phẩm 12 tiêu dùng vừa là những sản phẩm văn hoá, có giá trị mỹ thuật cao. Do đó, phát triển các làng nghề góp phần đắc lực vào việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân tộc Việt Nam trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá. Làng nghề truyền thống có thể có một nghề hoặc vài nghề truyền thống. Nếu làng có vài nghề thì có một nghề chính và tên nghề đó thường được gọi thành tên của làng. Sản phẩm của làng nghề có quy trình công nghệ nhất định, được truyền từ thế hệ này sang các thế hệ khác. Trong các làng nghề truyền thống của nước ta, trước đây chủ yếu là dạy nghề theo phương thức truyền nghề mà trước tiên là trong phạm vi gia đình. Nhìn chung, các nghề được bảo tồn trong từng gia đình hoặc từng dòng họ của các làng, xã mà ít được phổ biến ra bên ngoài, bởi vì ở một số nơi quy định truyền nghề rất chặt chẽ. Tuy nhiên, từ sau khi thực hiện cải cách công thương nghiệp (1957 - 1960) phương thức dạy nghề và truyền nghề truyền thống ở nước ta trở nên đa dạng và phong phú hơn. Làng nghề truyền thống là một cụm dân cư sinh sống tạo thành một thôn làng ở nông thôn hay phường hội ở đô thị; đó còn là cộng đồng nhỏ về văn hoá. Các sản phẩm do làng nghề truyền thống làm ra là sự kết tinh và phát triển các giá trị văn hoá, văn minh của dân tộc. Các làng nghề truyền thống có đặc điểm chung là thường yêu cầu vốn đầu tư không lớn nhưng có khả năng thu hút nhiều lao động, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Làng nghề truyền thống gắn bó chặt chẽ, không tách rời với nông nghiệp nông thôn về lao động, nguyên liệu, thị trường... Ở nông thôn nước ta gần như 100% người làm làng nghề đều có đất nông nghiệp. Diện tích đất này có thể do họ tự canh tác hoặc cho thuê hoặc nhượng cho người khác canh tác. Trong điều kiện toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, nếu phải xem xét để tìm ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế của những nước đang phát triển như Việt Nam thì trên hết phải kể đến sản phẩm của các làng nghề thủ công truyền thống. 13

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net