Anh gui tiểu luận nháng a103 thanh miện

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Anh gui tiểu luận nháng a103 thanh miện

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, phụ nữ luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng và có những cống hiến to lớn, góp phần xây dựng truyền thống vẻ vang của dân tộc. Đảng ta từ khi ra đời luôn quan tâm, coi trọng và khẳng định vấn đề giải phóng phụ nữ là một trong 10 nhiệm vụ quan trọng trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng với mục tiêu “nam, nữ bình bình quyền„. Đảng đã xác định vai trò, khả năng cách mạng của phụ nữ và coi công tác vận động phụ nữ là một nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược, một vấn đề có tính quốc sách trong toàn bộ công tấc vận động quần chúng của Đảng. Qua các kỳ Đại hội, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã xác định nội dung, phương thức nhiệm vụ phụ vận. Nhờ vậy, trong các thời kỳ cách mạng, đảng đã phát huy cao độ tiềm năng của phụ nữ đóng góp vào sự thắng lợi của cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của đảng với công tác vận động phụ nữ là một yêu cầu quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giầu đẹp, dân chủ, công bằng, văn minh. Để đáp ứng yêu cầu đó đảng luôn chăm lo, bảo vệ lợi ích thiết thực, quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, đảng luôn đánh giá và xác định vị trí, vai trò cán bộ nữ trong công tác đảng. Bước sang giai đoạn mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện hội nhập với nhiều thuận lợi và khong ít khó khăn cùng với cục diện chính trị phức tạp trong khu vực và trên thế giới, với các âm mưu của các thế lực thù địch thông qua diễn biến hòa bình hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng của nước ta. Bên cạnh đó, nền kinh tế thị trường đang phát huy, tác động làm thay đổi bộ mặt đất nước, nhưng mặt khác cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt. Có thể nói phụ nữ đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề nhất do những ảnh hưởng tiêu cực đó. Trong khi đó phụ nữ vừa là nguồn lao động quan trọng, vừa đóng góp rất to lớn trong đời sống gia đình và tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế xã hôi, đặc biệt đến thế hệ tương lai của đất nước. Mặt khác, xã hội và gia đình chưa thực sự nhìn nhận, đánh giá hết những cống hiến của phụ nữ cũng như những khó khăn của họ, về mặt nào đó còn nặng về huy động, khai thác sự đóng góp của phụ nữ mà chưa coi trọng đúng mức việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của cuộc sống. Chính những điều này đã làm chậm quá trình thực hiện mục tiêu công bằng xã hội và bình đẳng giới ở nước ta hiện nay. 1 Tình hình trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu lý luận về giải phóng phụ nữ một cách thấu đáo từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam, góp phần khẳng định và tìm ra những điều kiện cơ bản, giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện công cuộc giải phóng phụ nữ, phát huy vai trò phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa có ý nghĩa thời sự cấp bách, đòi hỏi sự nỗ lực của toàn đảng, toàn dân, trước hết là các ngành, các cấp, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu vấn đề này. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác vận động phụ nữ trong giai đoạn cách mạng ở nước ta hiện nay là một nhiệm vụ rất quan trọng. Tìm ra những giải pháp hữu hiệu để làm tốt công tác vận động phu nữ đang là mối quan tâm, lo lắng chung của toàn Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Miện nói chung, Thị trấn Thanh Miện nói riêng để thực hiện mục tiêu “ vì sự tiến bộ của phụ nữ”, xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh, đoàn kết, vận động các tầng lớp phụ nữ thi đua “ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”. Cải thiện đời sống vật chất và tinhh thần cho phụ nữ, xây dựng người phụ nữ yêu nước, sáng tạo, tự tin tự trọng, trung hậu, đảm đang. Thực hiện bình đẳng giới đồng thời phát huy tiềm năng to lớn của phụ nữ đóng góp vào việc thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị trấn Thanh Miện lần thứ XXV đã đề ra. Vì những lý do trên, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ Thị trấn Thanh Miện, huyện Thanh Miện hiện nay” làm tiểu luận cuối khoá trong chương trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác vận động phụ nữ, tiểu luận mong muốn làm rõ thực trạng và đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ thị trấn Thanh Miện trong tình hình mới. 2.2. Nhiệm vụ - Khái quát cơ sở lý luận về phụ nữ và công tác vận động phụ nữ. - Phân tích thực trạng chất lựng công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới của BCH Đảng bộ thị trấn Thanh Miện, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương hiện nay. 2 - Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới của BCH Đảng bộ thị trấn Thanh Miện, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu về nâng cao chất lượng công tác vận động phụ nữ của BCH Đảng bộ Thị trấn Thanh Miện từ năm 2011 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử - lôgíc; phân tích, tổng hợp, phương pháp quan sát, so sánh, phỏng vấn... 5. Kết cấu chính của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 03 chương, 07 tiết. 3 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ và công tác vận động phụ nữ 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin Từ giữa thế kỷ thứ XIX chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đã góp phần rất quan trọng trong việc giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ (mà ngày nay theo cách gọi của các nhà khoa học hiện đại ở Việt Nam là bình đẳng giới) như là một trong những nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng xã hội, giải phóng con người. Đây cũng là một trong những đóng góp vĩ đại của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với sự phát triển của khoa học giới trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Các chế độ xã hội có giai cấp bóc lột, tư tưởng vị kỷ hẹp hòi, được sản sinh ra từ phương thức sản xuất bóc lột mà còn tồn tại sự bất bình và mâu thuẫn giữa chế độ xã hội đối với tầng lớp phụ nữ. Trong các chế độ như vậy, dù người phụ nữ có cố gắng bao nhiêu, cố vắt kiệt hết sức lực của mình để tạo ra các điều kiện sinh sống cho xã hội thì họ vẫn bị xem thường. Bổn phận của họ là phải chịu đựng hy sinh; họ bị coi là những thức đồ chơi khi cần có thể bán, đổi , cho không. Quan niệm đạo đức, tôn giáo, pháp luật của giai cấp thốnh trị xã hội cùng với những ràng buộc khắt khe, phân biệt đối xử của gia đình dân tộc là thứ hai, thứ xiềng xích kẹp chặt người phụ nữ. Muốn phá bỏ hai thứ gông xiềng ấy, giải phóng phụ nữ, con đường duy nhất đúng đắn là tiến hành cách mạng giải phóng giai cấp, giải phong xã hội ; cách mạng vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra rằng; Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng to lớn, triệt để như vậy không thể thiếu lực lượng phụ nữ tham gia vì phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số Thế giới. Muón động viên được lực lượng phụ nữ tham gia vào quá trình cách mạng phải hiểu đượ khả năng của phụ nữ trong xã hội nói chung và mỗi giai đoạn lịch sử nói riêng, phải giải phong phụ nữ đẻ họ tự tin vào chính mình. Cách mạng xây dựng chế độ xã hội mới; Xã hội chủ nghĩa sẽ từng bước xoá bỏ một cách triệt để những nguyên nhân gây lên bất bình đẳng nam nữ để người phụ nữ vươn lên làm chủ bản thân, làm chủ xã hội. 1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức sớm và đặt niềm tin vững chắc vào khả năng to lớn của phụ nữ: "Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu nước, cứu dân, cho đến nay, mỗi khi nước nhà gặp nguy 4 nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng phụ nữ". Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, lịch sử là do nhân dân lao động sáng tạo nên, trong đó phụ nữ là một lực lượng to lớn. Người nói: "Xem trong lịch sử cách mệnh chẳng có lần nào là không có đàn bà con gái tham gia… Vậy nên muốn thế giới cách mệnh thành công thì phải vận động đàn bà con gái công nông các nước". Khi Bác có dịp đến Hoa Kỳ và đi thăm Tượng Nữ thần tự do, Người đã ghi lại cảm tưởng của mình: Ánh sáng trên đầu Thần Tự do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng như người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới. Vì vậy, chỉ khi nào đánh đuổi được bọn thực dân cướp nước, giành độc lập dân tộc, người phụ nữ mới được giải phóng. Từ thực tiễn cách mạng nhiều nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận có tính nguyên tắc: Dân chúng công nông là gốc của cách mệnh, đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Người luôn kêu gọi và có biện pháp tổ chức để phụ nữ tham gia. Trong tài liệu huấn luyện "Đường Kách mệnh", Người viết: "Cách mạng Nga mau thành công như thế, đứng vững như thế, cũng nhờ đàn bà con gái giúp vào. An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công". Trong thư gửi phụ nữ Việt Nam nhân lễ kỷ niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Nhân dịp 8/3, tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các nữ liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội và các bà mẹ cùng vợ con của các liệt sĩ….. tôi và Chính phủ rất biết ơn các cụ, các bà". Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt tự hào: "Phó tổng tư lệnh quân giải phóng là cô Nguyễn Thị Định. Cả thế giới chỉ có nước ta có vị tướng quân gái như vậy. Thật là vẻ vang cho miền Nam, cho cả dân tộc ta". Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức đề cao vai trò người phụ nữ ở hậu phương - một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của cuộc kháng chiến. Phụ nữ ở hậu phương phải chịu bao gian nan vất vả, vừa phải tăng gia sản xuất để đảm bảo cuộc sống và cung cấp cho tiền tuyến, vừa phải đảm đang công việc gia đình cho chồng, con đi đánh giặc, vừa phải nuôi dạy con cái, đủ khả năng tiếp bước con đường cách mạng của cha anh. Chị em phải chịu đựng thiếu thốn, mất mát về tình cảm vợ - chồng, mẹ - con, anh - em. Biết bao bà mẹ, người vợ đã hiến dâng cho Tổ quốc những người thân yêu nhất của mình và âm thầm chịu đựng thiệt thòi do hoàn cảnh éo le của thời chiến cũng như hậu chiến. Quý trọng, khâm phục, biết ơn những bà mẹ, người vợ Việt Nam, Hồ Chí Minh nhận 5 rõ: mỗi chiến công của quân dân trên cả 2 miền đều thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và cả máu của họ. Họ xứng đáng là anh hùng của những anh hùng đất Việt. Chính vì vậy, Người không chỉ nhắc nhở cả xã hội phải biết ơn các bà mẹ ở hai miền Nam - Bắc, đã sinh ra và nuôi dưỡng những người con ưu tú của dân tộc, mà nhân danh Chủ tịch nước, Người đã nói những lời tri ân họ bằng tình cảm chân thành: "Tôi kính cẩn nghiêng mình trước linh hồn các nữ liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc…Tôi kính chào các bà mẹ có con trong bộ đội, các bà mẹ cùng vợ của các liệt sĩ". Người đã đặt nền tảng cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ và khẳng định : Nói đến phụ nữ là nói đến một nửa phần của xã hội, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng xã hội chỉ có một nửa” Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh đã khảng định vai trò, vị trí to lớn của phụ nữu Việt Nam. Người luôn gắn nhiệm vụ giải phóng phụ nữ với giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Người khảng định rằng trong chế độ xã hội chủ nghĩa Đảng, nhà nước và các tổ chức xã hội phải thật sự quan tâm đến phụ nữ, hỗ trợ, tạo điều kiện để phụ nữ phát huy tối đa tiềm năng, năng lực của mình, đồng thời người phụ nữ muốn tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc thực sự thì phải có ý chí, có quyết tâm, tích cực học tập, rèn luyện để có đủ đức, đủ tài tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Phụ nữ Việt Nam xứng đáng nhận 8 chữ vàng: "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"; xứng đáng với kết luận trân trọng của Hồ Chí Minh: "Như thế là từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam ta thật anh hùng" ; “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. 1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về phụ nữ và công tác vận động phụ nữ 1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam Ngày 07/06/1984 Ban Bí thư ra Chỉ thị 44/CT-TW về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ” đưa ra những quan điểm khá toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam về công tác cán bộ nữ trước thềm đổi mới (1986). Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam (12-1986) đã đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Con người được coi là vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển xã hội, đã mở ra cho phụ nữ Việt Nam con đường giải phóng đầy hứa hẹn. ĐH đã đánh giá cao vai trò to lớn của phụ nữ, đồng thời đưa ra phương hướng hoạch định chính sách đối với phụ nữ nhằm bảo vệ và phát triển năng lực của phụ nữ: "Phụ nữ nói chung và lao động nữ nói riêng có những đặc điểm cần chú ý. Để phát huy vai trò to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, cần làm cho đường lối vận động phụ nữ của Đảng 6 được thấu suốt trong cả hệ thống chuyên chính vô sản, được cụ thể hóa thành chính sách, luật pháp". Sau Đại hội VI, các đại hội nhiệm kỳ tiếp theo đều xem vấn đề quan tâm đúng mức đến phụ nữ là một trong những vấn đề quan trọng để phát triển xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991) một lần nữa nhấn mạnh: "Thực hiện nam nữ bình đẳng về mọi mặt". Đến Đại hội VIII (1996) và đặc biệt là Đại hội IX (2001) vấn đề giải phóng phụ nữ được nghị quyết đại hội nhấn mạnh: "Thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; Có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". + Chỉ thị 37-CT/TW về một số vấn đề công tác cán bộ nữ với 5 nội dung: 1. Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm của Đảng về vấn đề cán bộ nữ. 2. Có quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ. 3. Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp, các ngành. 4. Xây dựng chính sách, tạo điều kiện cho cán bộ nữ làm việc và khuyến khích tài năng nữ phát triển. 5. Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong phụ nữ. + Nghị quyết số 04-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 12/7/1993 "Về đổi mới và tăng cường chính trị vận động phụ nữ trong tình hình mới". Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò của phụ nữ trong thời kỳ mới, Nghị quyết đã coi "giải phóng phụ nữ, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ... là mục tiêu và nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới" và đề xuất nhiệm vụ mang tính chiến lược là xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ phấn đấu, trưởng thành, tăng tỷ lệ nữ trong các cấp lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực quản lý kinh tế - văn hóa - xã hội. Để đáp ứng tình hình nhiệm vụ cách mạng và thực tiễn phong trào phụ nữ giai đoạn hiện nay, ngày 27/4/2007, Bộ chính trị khoá X đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW "Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Nghị quyết đề ra những quan điểm và mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Đảng ta về công tác phụ nữ: Thứ nhất, phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn 7 hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Thứ hai, công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tần lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Thứ ba, xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng. Thứ tư, công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực. Văn kiện Đảng XI xác định: Xây dựng và triển khai chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ, tập trung ở những vùng và khu vực có sự bất bình đẳng và nguy cơ bất bình đẳng cao; ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn bán phụ nữ và bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc, nhiệm vụ. 1.2.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước Thực hiện quan điểm, đường lối về công tác vận động phụ nữ của Đảng, Nhà nước đã ban hành và bổ sung hàng loạt văn bản: luật, nghị quyết, chỉ thị… nhằm bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ vươn lên phát triển mọi mặt, khẳng định vị trí làm chủ đất nước của mình một cách bình đẳng. + Năm 1986, Luật hôn nhân và gia đình và Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được bổ sung sửa đổi một số điều, phù hợp với cách nhìn đổi mới về quyền lợi của phụ nữ và trẻ em gái. 8 + Năm 2005, Luật Dân Sự xác định rõ về quyền lợi của phụ nữ và trẻ em. + Quyết định 163/HĐBT ngày 19-10-1988 kèm theo quy định về trách nhiệm các cấp chính quyền trong việc tạo điều kiện để các cấp Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam tham gia quản lý Nhà nước. + Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân ban hành năm 1989 trong đó có 8 chương về bảo vệ sức khỏe phô nữ và trẻ em.. + Điều 9 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã khẳng định quyền bình đẳng nam nữ. Trải qua nhiều lần sửa đổi Hiến pháp, song tư tưởng về bình đẳng giới luôn được bổ sung và hoàn thiện. Tất cả các Hiến pháp từ 1946, 1959, 1980, 1992 đều khẳng định: phụ nữ có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có 2 điều 63-64 ghi nhận rõ hơn quyền của phụ nữ: "Công dân nữ nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị – kinh tế – văn hóa - xã hội và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động nữ và nam làm việc nh nhau thì tiền lương ngang nhau... ". Đặc biệt, Luật số: 10/2012/QH13-Bộ Luật lao động, trong đó dành chương X nói về lao động nữ, là một văn bản pháp lý tương đối hoàn thiện đối với lao động nữ. Sau Hội nghị lần thứ IV của Quốc tế phụ nữ tại Bắc Kinh năm 1995, Việt Nam đã xây dùng "Kế hoạch hành động quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2000". Tháng 1 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến năm 2010". Tiếp đó, Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 (tháng 11/2006) đã thông qua Luật Bình đẳng giới. Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 2 (21/11/2007) đã thông qua Luật Phòng chống bạo lực gia đình nhằm tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện cho phụ nữ Việt Nam nối tiếp truyền thống "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang" trước đây và "năng động, sáng tạo, trung hậu, đảm đang" trong thời kỳ đổi mới. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước thể hiện trong các Văn kiện, Chỉ thị, Hiến pháp, pháp luật… đã và đang được thực thi trong cuộc sống nhằm phát huy vị trí, vai trò và tiềm năng của phụ nữ trong xã hội. 1.3. Chủ trương của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (Viết thêm phần này) 9 Chương 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ CỦA ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN THANH MIỆN 2.1. Khái quát đặc điểm tình hình Thị trấn và Hội Liên hiệp phụ nữ Thị trấn huyện Thanh Miện 2.1.1. Đặc điểm tình hình Thị trấn huyện Thanh Miện 2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên Thị trấn Thanh miện nằm ở trung tâm huyện; từ đông sang tây dài trên 4 km, từ bắc xuống nam rộng khoảng 1,7 km. Phía đông - nam giáp 2 xã Hùng Sơn (Thanh Miện) và xã Quang Minh (Gia Lộc); phía tây giáp xã Lê Hồng, phí bắc giáp xã Lam Sơn (Thanh Miện) và xã Nhật Tân (Gia Lộc), phía nam giáp 2 xã Tứ Cường và Ngũ Hùng. Thị trấn Thanh Miện gồm 6 khu dân cư : Khu An lạc, khu Vô Hối, khu Bất nạo, khu Lê Bình, khu Phượng Hoàng Thượng, khu Phượng Hoàng Hạ. Thị trấn là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng; quốc lộ 38B từ Thành phố Hải Dương qua Thị trấn Thanh Miện về Hưng Yên, quốc lộ 392B từ quốc lộ 5A Kẻ sặt qua Thị trấn Thanh Miện đi Bến trại..Thị Trấn Thanh Miện nằm ở trung tâm huyện Thanh Miện, từ đông sang tây dài trên 4km, từ bắc xuống nam rộng khoảng 1,7km. Phía đông nam giáp xã Hùng Sơn, xã Quang Minh (huyện Gia Lộc); phía tây giáp xã Lê Hồng; phía Bắc giáp xã Lam Sơn, phía nam giáp xã Tứ Cường và xã Ngũ Hùng (Huyện Thanh Miện). Thị trấn Thanh Miện có diện tích đất tự nhiên là 614,55ha, dân số 3.212 hộ, với hơn 10.600 nhân khẩu (Tính đến tháng 8/2016) trong đó hộ sản xuất nông nghiệp là 1.890 hộ, chiếm 58,8%, còn lại là công nghiệp, thương mại, dịch vụ, có 6.950 người trong độ tuổi lao động. 2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội Mặc dù là thị trấn song thị trấn Thanh Miện vẫn còn một phần lớn lao động tham gia vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Những năm gần đây song song với việc chú trọng phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ thương mại thì Đảng ủy và chính quyền thị trấn Thanh Miện đang tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, phá thế độc canh cây lúa. Năm 2016 bắt nhịp với cả nước, thị trấn Thanh Miện đã thực hiện đề án chuyển đổi 10ha từ diện tích cấy lúa sang trồng cây rau màu hàng năm có giá trị kinh tế cao tại khu Phượng Hoàng Thượng. Nâng tổng số diện tích từ cấy lúa sang đào ao, thả cá nuôi trồng thủy sản tập trung, chăn nuôi gia cầm và trồng các loại cây rau màu là 39,8 ha. 10 Đến tháng 12/2015 toàn thị trấn đã hoàn thành xong việc dồn điền đổi thửa gắn với chỉnh trang đồng ruộng tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân đầu tư phát triển ngành sản xuất nông nghiệp. Năng suất lúa bình quân năm 2015 đạt 120 tạ/ha. Tổng sản phẩm nội thị năm 2015 là 195,3 tỷ đồng. Tăng 17,2% so với năm 2014. Bình quân thu nhập đầu người là 25 triệu đồng/người/năm. * Cơ cấu kinh tế năm 2015 là: - Tiểu thủ công nghiệp và xây dựng: 27,9%. - Nông nghiệp: 30,5%. - Dịch vụ, thương mại: 41,6%. Trên địa bàn thị trấn Thanh Miện có 6 khu dân cư, dân cư phân bố tương đối đồng đều, gồm các khu: An Lạc, Vô Hối, Bất Nạo, Phượng Hoàng Thượng, Phượng Hoàng Hạ (ở 5 khu này đa số nhân dân sống bằng nghề truyền thống là trồng trọt, chăn nuôi), riêng khu Lê Bình một bộ phận nhân dân làm nghề tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ, một bộ phận là cán bộ, công chức. Có 5 trường học từ bậc học Mầm non đến THCS, về cơ sở vật chất cơ bản các nhà trường đã được đầu tư xây dựng, kiến thiết kiên cố, cao tầng hiện đại, đáp ứng tốt tình hình dạy và học tại địa phương. Trong đó có 04 nhà trường đã được công nhận trường chuẩn Quốc gia (02 trường đã đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2). Trạm y tế thị trấn cũng từng bước được xây dựng và nâng cấp, tương đối đồng bộ và hoàn thiện, đã đạt chuẩn Quốc gia năm 2003. Thị trấn Thanh Miện có 100% hộ dân có sử dụng điện thắp sáng, 90% số hộ sử dụng nước sạch, có các công trình vệ sinh hiện đại, đạt tiêu chuẩn đảm bảo theo quy định. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới, tiếp cận đa chiều là 247 hộ, chiếm 9,27% (số liệu đến tháng 12/2015). 2.1.2. Đặc điểm Hội Liên hiệp phụ nữ Thị trấn huyện Thanh Miện (Viết thêm phần này) 2.2. Thực trạng công tác vận động phụ nữ của đảng bộ Thị trấn Thanh Miện 2.2.1 Ưu điểm 2.2.1.1. Đổi mới, nâng cao nhận thức về công tác phụ nữ và bình đẳng giới Trong những năm qua, đảng bộ thị trấn Thanh Miện thường xuyên quan tâm chỉ đạo Hội LHPN tăng cường tuyên truyền , bồi dưỡng nâng cao kiến thức và ý thức chấp hành đường lối chủ trương của đảng , chính sách pháp luật của 11 nhà nước nhất là các chính sách liên quan đến phụ nữ trẻ em. Sau khi có Nghị quyết số 04 của Bộ chính trị và Chỉ thị số 11-CT/TU của Ban bí thư TW Đảng, cấp uỷ Đảng thị trấn đã tổ chức hội nghị chuyên đề về công tác vận động phụ nữ và công tác cán bộ nữ; phổ biến nghị quyết tuyên truyền vận động phụ nữ thực hiện chủ trương của đảng , luật pháp chính sách của nhà nước, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương; phối hợp với chính quyền các ngành, đoàn thể đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm của xã hội, cộng đồng và gia đình về bình đẳng giới và công tác phụ nữ, Lên án , đấu tranh với các biểu hiện coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm của người phụ nữ. Đổi mới công tác nắm bắt nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ và nhân dân kịp thời phát hiện và phản ánh những bất cập, những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đề xuất các giải pháp, tham gia giải quyết phù hợp hiệu quả. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền giáo dục, củng cố, bồi dưỡng , nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên; Phát triển các mô hình tuyên truyền, giáo dục theo chuyên đề phù hợp với các nhóm đối tượng phụ nữ; lồng ghép các nội dung tuyên truyền gáo dục với các hoạt động hỗ trợ cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích thiết thực của phụ nữ. Mở rộng liên kết với các cơ quan thông tin đại chúng, các ngành có liên quan tăng cường thời lượng thông tin tuyên truyền về thành tựu bình đẳng giới, về các gương điển hình trong phong trào phụ nữ và quảng bá hình ảnh, các hoạt động của Hội LHPN các cấp. Xây dựng và thực hiện hiệu quả đề án “ Tuyên truyền giáo dục phẩm chất đạo đức phụ nữ Việt nam thời kì CNH, HĐH đất nước” vận động hướng dẫn hội viên phụ nữ phấn đấu rèn luyện theo tiêu chí “ Tự tin- Tự trọng- Trung hậu- Đảm đang”; tuyên truyền sâu rộng và tạo sự chuyển biến rõ nét về chất lượng, hiệu quả phong trào thi đua “ Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc, cuộc vận động “ xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”, có các hoạt động thiết thực đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Tích cực tham gia hưởng ứng phong trào thi đua “ cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” Đảng uỷ cải tiến công tác chỉ đạo, theo dõi đánh giá thi đua, đảm bảo tính thiết thực, chất lượng, hiệu quả. Tăng tính chủ động, sáng tạo cho Hội, đa dạng các hình thức thi đua; quan tâm đến việc phát hiện , biểu dương, nhân rộng điển hình tiên tiến trong việc thực hiện cac phong trào thi đua, góp phần quan trọng đẩy mạnh sự nghiệp CNH,HĐH, xây dựng quê hương giàu đẹp văn minh. Để năng cao kiến thức cho chị em, Đảng uỷ thị trấn đã chỉ đạo Hội tích cực phối hợp với các ngành chức năng mở được 42 lớp tập huấn truyền thông nâng 12 cao kiến thức với nhiều nội dung như: Phòng chống TNXH, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, VSMT, dân số KHHGĐ, các lớp trợ giúp pháp lý, tuyên truyền pháp luật liên quan đến phụ nữ , bình đẳng giới trong luật hôn nhân gia đình, kỹ năng chăm sóc nuôi dạy con theo khoa học, kỹ năng quản lý vốn , tăng cường giáo dục kiến thức và kỹ năng sống, kỹ năng tổ chức cuộc sống gia đình...thu hút trên 1000 lượt hội viên tham dự. 2.2.1.2. Lãnh đạo công tác xây dựng ,phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới. Đây là nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách về bình đẳng giới nên ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ thị trấn đã lãnh chỉ đạo Hội phụ nữ tập trung vào một số hoạt động trọng tâm : Phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách liên quan đến phụ nữ- trẻ em, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường. Cấp uỷ đảng triển khai thực hiện nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước. Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị định 19-NĐ/CP, Chỉ thị 13-CT/UB của UBND tỉnh về đảm bảo cho các cấp Hội phụ nữ tham gia quản lý nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ nữ của thị trấn. Chính vì vậy mà đội ngũ cán bộ nữ từng bước được trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Có 6 đồng chí là trưởng, phó các ngành đoàn thể, 2 đồng chí là uỷ viên BCH Đảng bộ, 8 đồng chí là đại biểu HĐND. Trong nhiệm kỳ qua đã có 22 hội viên ưu tú được đi học lớp đối tượng phát triển đảng, có 21/22 được kết nạp, 01 đang làm thủ tục kết nạp trong dịp tới. Để năng cao năng lực giám sát việc thực hiện luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, Đảng uỷ chỉ đạo Hội phối hợp với Ban học tập cộng đồng của thị trấn đã mở được nhiều lớp học với nhiều nội dung như: giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý, chuyển giao khoa học kỹ thuật, giáo dục giới tính,nghệ thuật làm mẹ, làm vợ, nuôi dạy con theo khoa học, phòng chống tệ nạn xã hội; phôí hợp tham gia hòa giải thành công 18 vụ mâu thuẫn gia đình , tranh chấp đất đai ... Trong 5 năm (từ 2011 - 2015 ) Hội LHPN đã có 7 hội viên tham gia học lớp Trung cấp lý luận chính trị, 16 hội viên theo học các lớp tại chức, tích cực tham gia hội thi cán bộ Hộ giỏi, tuyên truyền viên giỏi, tay nghề giỏi...Hàng trăm lớp học, tập huấn với nhiều nội dung phong phú cho hàng trăm phụ nữ học tập, hàng ngàn phụ nữ được tiếp cận kiến thức mới để nâng cao nhận thức , năng lực trình độ. 2.2.1.3. Tổ chức thực hiện tốt các chính sách về hỗ trợ vốn, dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ. 13 Xác định đây là nhiệm vụ trong tâm, mũi nhọn xuyên suốt nhiệm kỳ, thực hiện tốt nhiệm vụ này góp phần thúc đẩy các hoạt động khác của Hội. Vì vậy ngay từ đầu nhiệm kỳ, BCH Đảng bộ thị trấn đã đã chỉ đạo Hội LHPN xây dựng kế hoạch thực hiện toàn khóa. Hằng năm có kế hoạch chi tiết để chỉ đạo các chi tổ hội tổ chức thực hiện. Kết quả: - Phong trào "Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình và giúp phụ nữ nghèo có địa chỉ" tiếp tục được thực hiện có hiệu quả. Bằng nhiều hình thức khác nhau như: giúp giống, vốn, ngày công , hướng dẫn cách làm thông qua " cầm tay chỉ việc, giúp cho tới khi thoát nghèo và thoát nghèo bền vững. Trong nhiệm kỳ qua Hội đã vận động được 545 chị giúp 8 chị phụ nữ nghèo làm chủ hộ với số tiền trên 200 triệu đồng. Hội đã giúp đỡ được hơn 80% hội viên nghèo là chủ hộ và có 35% hộ đã thoát nghèo. - Hội tích cực khai thác nguồn vốn vay từ NHCSXH cho chị em vay để phát triển kinh tế . Tính đến nay, tổng số vốn do Hội LHPN đã quản lý là gần 9 tỷ đồng cho 293 hộ vay , tăng so với đầu nhiệm kỳ là hơn 3 tỷ đồng. Ngoài ra Hội còn tích cực huy động các nguồn vốn nội lực từ phong trào của phụ nữ như nguồn tiết kiệm 5 nghìn đồng / hội viên/tháng, các tổ tiết kiệm và vay vốn, phụ nữ góp vốn cho vay luân chuyển...với tổng số tiền trên 400 triệu đồng cho 67 lượt chị em vay. - Hoạt động dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ trong lúc nông nhàn luôn được Đảng bộ thị trấn quan tâm chỉ đạo. Trong nhiệm kỳ Hội đã phối hợp mở được nhiều lớp dạy nghề , chuyển giao khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản giúp cho hội viên có nhiều kiến thức áp dụng vào sản xuất. Hội thường xuyên phối hợp với HTXDVNN vận động hội viên sản xuất theo quy trình 1 vùng, 1 giống 1 thời gian, cấy giống lúa chất lượng cao...Thực hiện thành công đề án " chỉnh trang đồng ruộng, dồn ô đổi thửa". Đã có 5/5 khu làm nông nghiệp thực hiện thành công đề án, Hội đã vận động hội viên hiến đất làm đường giao thông nội đồng với tổng 32 000m2 Hội LHPN được đánh giá cao trong công tác vận động tuyên truyền Năm 2015-2016 đảng bộ thị trấn đang tích cực tuyên truyền thực hiện đề án quy hoạch diện tích trồng lúa sang trồng cây hằng năm cho hiệu quả kinh tế cao đang được hội viên phụ nữ tích cực tham gia. 2.2.1.4. Lãnh đạo công tác xây dựng gia đình ấm no, bình đảng, hạnh phúc Trong những năm qua , hoạt động hỗ trợ phụ nữ xây dựng gia đình " No ấm tiến bộ, hạnh phúc" được Đảng bộ thị trấn quan tâm, chỉ đạo Hội LHPN thực hiện và triển khai sâu rộng tới hội viên. 14 Thông qua việc tuyên truyền vận động cán bộ , hội viên phụ nữ xây dựng gia đình 4 chẩn mực gắn liền với cuộc vận động " Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" đã tạo khí thế thi đua trong các tầng lớp phụ nữ. Hội LHPN đã phối hợp với Công an triển khai thực hiện Nghị quyết liện tịch số 01 giữa TW Hội LHPN Việt Nam và Bộ công an về " Quản lý giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và mắc các tệ nạn xã hội'; Phối hợp với ngành chức năng tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ , trẻ em, tuyên truyền cong tác dân số KHHGĐ. Hàng năm có từ 90- 95 % gia đình hội viên đang ký thực hiện gia đình 4 chuẩn mực và thực hiện Nghị quyết liên tịch số 01. Qua bình xét hằng năm có trên 90 % gia đình đạt. Phối hợp tổ chức khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho hơn 1600 hội viên phụ nữ. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng "mái ấm tình thương " cho phụ nữ nghèo , phụ nữ đơn thân , khuyết tật có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Từ năm 2011 đến nay Hội đã phối hợp tu sửa 01 ngôi nhà, 01 công trình nước sạch và 01 công trình vệ sinh cho phụ nữ nghèo với tổng số tiền trên 30 triệu đồng. Công tác hậu phương quân đội , nhân đạo từ thiện được Hội quan tâm . Từ năm 2011 đến nay Hội đã tổ chức thăm hỏi, tặng quà mẹ VNAH, các gia đình chính sách, hội viên có hoàn cảnh khó khăn, động viên tân binh lên đường nhập ngũ, ủng hộ đồng bào bị lũ lụt, hạn hán, ủng hộ vì biển đảo quê hương với tổng số tiền là hơn 75 triệu đồng. Công tác phòng chống các tệ nạn xã hội, HIV/AIDS được Hội triển khai với nhiều nội dung, hình thức phong phú, phối hợp với Trạm y tế quan tâm tư vấn các đối tượng có nguy cơ cao. Hàng năm nhân tháng hành động phòng chống HIV/AIDS, hội tham gia mít tinh diễu hành, thăm hỏi tặng quà hội viên phụ nữ nhiễm H có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.. Ban chấp hành Đảng bộ thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo Hội quan tâm đến công tác vệ sinh an toàn thực phẩm , nước sạch - vệ sinh môi trường. Thường xuyên kiểm tra, giám sát các cơ sở chế biến, sản xuất , các quán kinh doanh , cửa hàng ăn uống, các bếp ăn bán trú của các trường học, các công ty, xưởng may trên địa bàn. Hội thành lập được tổ thu gom rác thải gồm 16 thành viên thu gom rác thường xuyên 3 buổi/tuần. Các chi hội thu don vệ sinh đường phố, ngõ vào ngày 25 hàng tháng. Tiếp cận dự án "Cải thiện vệ sinh cộng đồng dựa trên kết quả đầu ra Choba" Hội đã vận động được 240 hộ gia đình là đối tượng của dự án xây dựng công trình vệ sinh hưởng lợi và lan tỏa được 122 hộ khác tu sửa xây mới công trình vệ sinh. Nâng tổng số hộ sử dụng công trình hợp vệ sinh là 90%. Nhiều năm qua trên địa bàn không xảy ra ngộ độ thực phẩm tập thể, không có dịch bệnh xảy ra. 2.2.1.5. Lãnh đạo công tác xây dựng tổ chức Hội vững mạnh 15 Hàng năm, cấp ủy đảng đặc biệt chỉ đạo Hội quan tâm đào tạo, bồi dưỡng chyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ Hội. Từ năm 2011 đến nay đã cử được 14 lượt cán bộ Hội tham gia bồi dưỡng kiến thức về lý luận, chuyên môn, nghiệp vụ và nhiều chuyên đề khác. Hiện nay BCH Hội LHPN thị trấn Thanh Miện có 11 đồng chí , Trong đó đảng viên là 7 đồng chí. Trình đô lí luận chính trị 2 đồng chí. Đại học 3 đồng chí, trung học chuyên nghiệp 1 đồng chí. Đại biểu HĐND là 6 đ/c. Ban chấp hành đảng bộ chỉ đạo Hội thường xuyên kiêm tra việc xây dựng hội viên nòng cốt , nhân rộng mô hình tập hợp thu hút hội viên, đổi mới nội dung, phương thức trong sinh hoạt hội... Từ năm 2011 đên nay hội đã kết nạp được 245 hội viên mới , hiện nay tỷ lệ thu hút hội viên tham gia sinh hoạt đạt trên 82%. Hội LHPN luôn là lá cờ đầu trong phong trào phụ nữ của huyện. Công tác tôn giáo được Đảng bộ thị trấn quan tâm , thường xuyên chỉ đạo Hội quan tâm hội viên phụ nữ sống tốt đời đẹp đạo..Tỏ chức các hoạt động văn hóa, các lễ hội truyền thống phù hợp thiết thực hiệu quả, tiết kiệm. BCH đảng bộ thị trấn đã chỉ đạo Hội LHPN tích cực tuyên truyền nâng cao nhận thức của cán bộ, hội viên phụ nữ về đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước và các hoạt động đối ngoại. Chủ động khai thác nguồn vốn từ dự án Quốc tế để hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cho cán bộ hội cơ sở. Hội LHPN đã tiếp cận các dự án " Phụ nữ với việc phòng chống tác hại của thuốc lá", " nâng cao năng lực cho nữ ứng cử viên HĐND", " dự án VN8PO8 của tổ chức Dân số Thế giới LHQ về phòng chống bạo lực gia đình, kiểm soát mất cân bằng giới tính khi sinh, chăm sóc phát huy vai trò người cao tuổi...Nhìn chung các dự án đều được Hội tổ chức có kêt quả tốt đem lại quyền lợi cho phụ nữ và đóng góp tích cực trong sự phát triển kinh tế xã hội của Thị trấn Thanh Miện. 2.2.2. Hạn chế Công tác vận động phụ nữ của Đảng bộ thị trấn Thanh Miện bên cạnh những điểm mạnh vẫn còn bộc lộ nhiều thiếu sót có ảnh hưởng lớn đến công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. - Việc lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy chi bộ với phong trào phụ nữ và hoạt động Hội chưa thường xuyên, chưa sâu sát. - Các chính sách giải quyết việc làm , chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe và quyền lợi cho chị em phụ nữ còn chưa thường xuyên. - Việc phát hiện, biểu dương các tập thể, cá nhân điển hình trong hoạt động hội chưa kịp thời. 16 - Các mô hình dạy nghề khá đa dạng nhưng hiệu quả chưa cao, chưa có tính bền vững, còn phụ thuộc nhiều vào đầu ra cho sản phẩm.. Thực trạng gia đình ở địa phương hiện nay đang chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, nhiều gia đình nề nếp , truyền thống đạo đức bị xuống cấp. Tình trạng ly hôn, tỷ lệ trẻ em vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng. Tình cảm anh em, vợ chồng, cha mẹ, con cái có nhiều vấn đề phức tạp, tệ nạn xã hội, mại dâm, buôn bán phụ nữ trẻ em ra nước ngoài gây nhiều nhức nhối cho gia đình và xã hội. Trước thực trạng như vậy, phụ nữ là người đầu tiên chịu và chịu nhiều bất hạnh nhất do các tiêu cực đó. Do vậy, thiếu điều kiện để phụ nữ kết hợp hài hòa nghĩa vụ công dân với việc thực hiện chức năng gia đình để xây dựng gia đình no ấm bình đẳng tiến bộ, hạnh phúc. 2.2.3. Nguyên nhân 2.2.3.1 Nguyên nhân ưu điểm Những năm qua, cấp ủy Đảng thị trấn Thanh Miện đã vận dụng sáng tạo quan điểm, chủ trương , đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước, trên cơ sở đó đề ra nghị quyết , kế hoạch , các chương trình hành động để lãnh đạo Hội phụ nữ tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Chính quyền các cấp đã có những quy định cụ thể để giảm bớt những đóng góp , lao động nặng nhọc và độc hại đối với phụ nữ nhất là phụ nữ đang mang thai. Hoạt động của Hội LHPN thị trấn đạt được nhiều kết quả là nhờ có sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của Hội LHPN các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành đoàn thể và với tinh thần đoàn kết nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ, hội viên, phụ nữ trong toàn thị trấn Thanh miện. Cấp ủy đảng đã đổi mới nhận thức đánh giá công tác phụ nữ và khẳng định vị trí, vai trò của phụ nữ và công tác phụ nữ là một động lực cách mạng quan trọng trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. Hội phụ nữ dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tích cực chủ động sảng tạo, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức thu hút, tập hợp hội viên, giáo dục chị em thực hiện tốt nghĩa vụ của người công dân, thực hiện thiên chức làm vợ, làm mẹ, tổ chức tốt cuộc sống gia đình. Các phong trào của tổ chức Hội và địa phương phát động đã được các tầng lớp phụ nữ hưởng ứng tích cực, đáp ứng được tâm tư , nguyện vọng và yêu cầu bức xúc của đời sống. Hội đã quan tâm, chăm lo quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên phụ nữ trên cơ sở đó để hội viên gắn bó với tổ chức Hội; phong trào " Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc" và 6 nhiệm vụ trong tâm của Hội ... đã đi vào cuộc sống , có hiệu quả thiêt thực và ý nghĩa xã hội sâu sắc. 17 2.2.3.2 Nguyên nhân hạn chế. Trước hết từ tổ chức cơ sở đảng , chính quyền có lúc, có nơi có thái độ buông lỏng và coi nhẹ công tác vận động phụ nữ. Việc thực hiện Nghị quyết số 04 của Bộ chính trị và Chỉ thị số 44 của Ban bí thư TW Đảng của cấp ủy đảng chưa cao , có nơi chỉ là hình thức, việc phổ biến nghị quyết còn sơ sài, trong chỉ đạo thiếu chương trình kế hoạch. Có lúc cấp ủy chưa nhận thức đầy đủ về mục đích ý nghĩa của vai trò sự nghiệp giải phóng phụ nữ , vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tư tưởng phong kiến gia trưởng, coi thường phụ nữ còn khá nặng, nhiều cấp ủy, chính quyền còn coi công tác vận động phụ nữ là việc riêng của Hội LHPN. Có lúc không đôn đốc, theo dõi , kiểm tra thường xuyên và định kỳ đối với công tác phụ nữ mà còn xem nhẹ việc bồi dưỡng nâng cao trình độ , tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển. Các chính sách giải quyết việc làm, chăm lo đời sống , bảo vệ sức khỏe và quyền lợi cho phụ nữ cấp ủy đảng chưa quan tâm . Đặc biệt chính sách cán bộ nữ nhiều thiếu sót dẫn đến cán bộ nữ bị giảm sút, nguồn cán bộ nữ đang bị hụt hẫng. Đội ngũ cán bộ nữ hiện nay vừa thiếu vừa yếu lại không đồng bộ trong tất cả các lĩnh vực , cán bộ nữ trong các cấp ủy đảng, các ngành kể cả ngành có tỷ lệ nữ cao như giáo dục, y tế... Cơ cấu cán bộ lãnh đạo, quản lý bị mất cân đối không tương xứng với tiềm năng, lực lượng và trình độ của phụ nữ. Cán bộ nữ tham gia quản lý chủ yếu ở cấp giúp việc ( cấp phó) và cấp thực hiện . Rất ít phụ nữ được đề bạt làm cấp trưởng, nếu có làm cấp trưởng thì cũng thường ở vị trí không thể bố trí cán bộ nam hoặc cán bộ nam không muốn tham gia như: Hội phụ nữ, nhà trẻ mẫu giáo, tiểu học... Đặc biệt là cán bộ trong các cơ quan dân cử , giảm nghiêm trọng. Về tổ chức Hội LHPN, trước sự thay đổi về cơ chế, chính sách quản lý kinh tê đã tác động nhiều đến tâm tư, nguyện vọng của mọi đối tượng phụ nữ và diều kiện hoạt động của cơ sở Hội. Hội viên không ham muốn học tập chính trị, sinh hoạt , hội họp như trước. Hội cũng không có chế độ bao cấp để giải quyết một số quyền lợi cho cán bộ hội viên như trước đây. Trong hoàn cảnh mới, đời sống và điều kiện hoạt động của cán bộ Hội gặp khó khăn, công tác vận động phụ nữ còn nhiều trở ngại, mục tiêu bình đẳng giới vẫn còn đang ở phía trước và vẫn là mục tiêu phấn đấu. Định kiến về giới cũ vẫn tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của xã hội do ảnh hưởng tư tưởng nho giáo và tập tục phong kiến lạc hậu từ lâu đời. Xã hội luôn đòi hỏi phát huy tiềm năng của phụ nữ, nhưng điều kiện để giải phóng, bồi dưỡng và bảo vệ sức lao động của người phụ nữ chưa tương xứng. Xã hội luôn đòi hỏi người phụ nữ phải tăng năng xuất lao động , trong khi đó gánh nặng công việc gia đình chưa được giảm nhẹ mà còn phức tạp và nặng nề hơn. Xã hội 18 và gia đình mong muốn phụ nữ phải làm tôt trách nhiệm của người vợ, người mẹ, nhưng giáo dục hướng dẫn, quản lý đạo đức, kỷ cương xã hội và gia đình có sự buông lỏng. Việc phát huy mạnh mẽ vai trò và sự đóng góp của phụ nữ đến nay có lúc có nơi đang bị suy giảm về mội mặt, hoạt động của Hội LHPN còn gặp nhiều khó khăn , hình thức tập hợp thu hút hội viên ở nhiều cơ sở còn đơn điệu, nghèo nàn , nội dung hoạt động còn khô cứng, ít đề cập đến những vấn đề trong cuộc sống tình cảm, tâm tư nguyện vọng của phụ nữ. Việc xây dựng cán bộ hội chưa xuất phát từ yêu cầu, vai trò, vị trí, chức năng của hội , bên cạnh đó bản thân cán bộ nữ còn ngại học tập , ngại phấn đấu tư tưởng tự ti , chủ nghĩa trung bình giản đơn, xuôi chiều. Một số chi hội phụ nữ đội ngũ cán bộ chưa đổi mới phương thức làm việc, công tác tham mưu còn hạn chế, chưa tranh thủ được sự quan tâm tạo điều kiện của chính quyền do vậy phong trào chưa có chuyển biến mạnh mẽ. Kinh phí hoạt động của Hội và phụ cấp cho đội ngũ cán bộ Hội cỏn hạn chế. 2.2.4. Bài học kinh nghiệm (Viết thêm phần này) 19 Chương 3 MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG PHỤ NỮ CỦA ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN THANH MIỆN 3.1. Mục tiêu, phương hướng Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bọ thị trấn Thanh Miện đối với công tác vận động phụ nữ và hoạt động của Họi LHPN nhằm đoàn kết tập hợp , vận động các tầng lớp phụ nữ thị trấn tích cự học tập, lao động sáng tạo , xây dựng gia đình hạnh phúc. Nâng cao địa vị của phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới ở mọi lĩnh vực để phụ nữ tham gia đóng góp ngày càng lớn hơn cho gia đình và xã hội; tiếp tục củng cố , xây dựng tổ chức hội vững mạnh ; thực hiện tốt những nhiệm vụ, chỉ tiêu của Hội cấp trên cũng như cấp ủy các cấp giao. Tiếp tục đảy mạnh việc học tập và làm theo tấm gươngđạo đức Hồ chí Minh; Nghị quyết số 11 của Bộ chính trị về " Công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH,HDH đất nước" .Thực hiện tốt các cuộc vận động do TW Hội phát động như cuộc vận động xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch, cuộc vận động xây dựng mái ấm tình thương.. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Tiếp tục nâng cao hơn nữa nhận thức của các câp sủy Đảng vè vai trò lãnh đạo đối với công tác vận động phụ nữ Thực tế trải qua các kỳ Đại hội, cấp ủy Đảng đã quán triệt quan điểm của Đảng , nhà nước về công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới. Nghị quyết số 04 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 8B, Chỉ thị số 44 của Ban Bí thư TW đảng,Nghị định 79 của Chính phủ dã tạo sự chuyển biến tích cự trong nhận thức của các cấp ủy Đảng. Vì vậy công tác vận động phụ nữ có những bước chuyển biến tích cực, đóng góp quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các tầng lớp phụ nữ thị trấn Thanh Miện luôn phát huy được truyền thông tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam cần cù thông minh sáng tạo, trung hậu, đảm đang. Trên từng lĩnh vực công tác , lao động và học tập chị em dã có cố gắng nỗ lực vươn lên tự khẳng định mình, có nhiều đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, cho sự nghiệp phát triển của từng gia đình ,xã hội và cộng đồng. Từ việc thực hiện tốt các phong trào thi đua " phụ nữ tích cực lao động sáng tạo xây dựng gia đình hạnh phúc" đã có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi con khỏe , dạy con ngoan, thực hiện tốt công tác dân số KHHGĐ , xây dựng cuộc sống mới ở địa bàn khu dân cư đã cosnhieeuf gương điển hình tiến tiến về lao động sản xuất , 20

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net