Giáo dục đạo đức cho học viên các trường Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Giáo dục đạo đức cho học viên các trường Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- PHẠM MINH VĂN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành Hồ Chí Minh học HÀ NỘI – 2013 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------- PHẠM MINH VĂN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC VIÊN CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học Mã số: 60 31 02 04 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Lƣu Minh Văn HÀ NỘI – 2013 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Thông tin, số liệu trong luận văn hoàn toàn trung thực, chính xác, các trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Minh Văn 3 LỜI CẢM ƠN Trước hết, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Lưu Minh Văn, người thầy đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trực tiếp giảng dạy chúng tôi trong suốt thời gian học tập; Đặc biệt là sự quan tâm giúp đỡ tận tình của quý Thầy, Cô Khoa Khoa học Chính trị, Phòng Sau đại học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội và Phòng Khoa học Công nghệ trường Đại học Sài Gòn. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến các Học viện, các trường Đại học, Cao đẳng và Trung cấp Công an nhân dân đã giúp đỡ, cung cấp thông tin bổ ích để tôi hoàn thành luận văn. Đặc biệt, sự quan tâm giúp đỡ của Đảng ủy, Ban giám hiệu, lãnh đạo các đơn vị, Bộ môn Khoa học Chính trị - Xã hội và Bộ môn Tâm lý thuộc Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II, đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Đồng Nai, tháng 12 năm 2013 Tác giả Phạm Minh Văn MỤC LỤC 4 Trang MỞ ĐẦU................................................................................................ 1 Chƣơng 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG CÁC TRƯỜNG CAND........................ 8 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức....... 8 1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng…………... 8 1.1.1.1. Trung với nước hiếu với dân…………………………………. 12 1.1.1.2. Yêu thương con người………………………………………... 14 1.1.1.3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư……………………….. 16 1.1.1.4. Tinh thần quốc tế trong sáng…………………………………. 21 1.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức ……………. 23 1.2. Nội dung và phương pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác giáo dục đạo đức cho học viên các trường CAND………….. 29 1.2.1. Nội dung quan niệm đạo đức người Công an cách mạng của HCM 29 1.2.1.1. Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính………………… 31 1.2.1.2. Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ………………………... 33 1.2.1.3. Đối với chính phủ, phải tuyệt đối trung thành………………... 35 1.2.1.4. Đối với nhân dân, phải kinh trọng, lễ phép…………………... 36 1.2.1.5. Đối với công việc, phải tận tuỵ………………………………. 37 1.2.1.6. Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo………………….. 39 1.2.2. Vận dụng phương pháp của Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cho học viên các trường CAND………………………………………. 40 1.2.2.1. Vận dụng phương pháp nêu gương của Hồ Chí Minh……….. 40 1.2.2.2. Vận dụng phương pháp cảm hoá của Hồ Chí Minh…………. 43 1.2.2.3. Vận dụng phương pháp phê bình và tự phê bình của HCM…. 45 Tiểu kết chương 1.................................................................................. 47 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ KHUYẾN NGHỊ VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRONG CÁC TRƯỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH…………………………………………. 49 2.1. Đặc điểm, tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức trong các trường CAND......................................................................................... 49 2.1.1. Đặc điểm tình hình học viên các trường CAND…………..…… 49 2.1.1.1. Khái quát về các trường CAND……………………………… 49 2.1.1.2. Đặc điểm học viên các trường CAND……………………….. 51 2.1.2.Tầm quan trọng của công tác giáo dục đạo đức trong các trường CAND 54 2.1.2.1. Tính đặc thù của lực lượng CAND............................................ 54 2.1.2.2. Tính tất yếu khách quan tăng cường giáo dục đạo đức cho học viên CAND hiện nay……………………………………………………. 58 5 2.2. Thực trạng công tác giáo dục đạo đức trong các trường CAND hiện nay 61 2.2.1. Nội dung và biện pháp giáo dục đạo đức trong các trường CAND 61 2.2.1.1. Những nội dung cơ bản trong giáo dục đạo đức học viên…….. 61 2.2.1.2. Những hình thức, biện pháp trong giáo dục đạo đức học viên... 65 2.2.2. Thành tựu, hạn chế trong giáo dục đạo đức của các trường CAND 68 2.2.2.1. Những thành tựu đã đạt được………………………………….. 68 2.2.2.2. Những hạn chế trong giáo dục đạo đức……………………….. 71 2.2.2.3. Những nguyên nhân…………………………………………… 73 2.3. Vấn đề đặt ra và khuyến nghị về công tác giáo dục đạo đức ở các trường CAND………………………………………………………….. 76 2.3.1. Những vấn đề đặt ra…………………………………………….. 76 2.3.1.1. Mâu thuẫn giữa việc giáo dục đạo đức trong nhà trường với những tác động tiêu cực ngoài xã hội………………………………….. 76 2.3.1.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu giáo dục đạo đức với những hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức trong các trường CAND…………….. 79 2.3.2. Một số khuyến nghị về giáo dục đạo đức cho học viên các trường CAND 81 2.3.2.1. Phát huy vai trò của các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể trong việc GDĐĐ, giáo dục nhân cách cho học viên………………….. 81 2.3.2.2. Đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp GDĐĐ cho học viên…… 83 2.3.2.3. Phát huy vai trò tự học tập, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng của học viên…………………………………………………….. 88 2.3.2.4. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong giáo dục đạo đức cho học viên....................................................................... 89 2.3.2.5. Kết hợp phong trào “CAND học tập, thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy” với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - CAND vì nước quên thân, vì dân phục vụ”………………. 92 2.3.2.6. Đổi mới nội dung giảng dạy về đạo đức của người Công an cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh…………………………………….. 95 Tiểu kết chương 2…………………………………………….……….. 97 KẾT LUẬN…………………………………………………………… 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………… 101 DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN 6 Chữ viết tắt Cụm từ viết tắt CAND Công an nhân dân ANND An ninh nhân dân CSND Cảnh sát nhân dân HV Học viên CA Công an GDĐĐ Gíao dục đạo đức XDLL Xây dựng lực lượng LL CAND Lực lượng Công an nhân dân QLHV Quản lý học viên CSPVCTH Chiến sĩ phục vụ có thời hạn CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CBCS Cán bộ chiến sỹ XHCN Xã hội chủ nghĩa CNXH Chủ nghĩa xã hội KTTT Kinh tế thị trường 7 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, người cha kính yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Người đã dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và của nhân dân Việt Nam. Con người, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người đều là tấm gương đạo đức cho toàn Đảng, toàn dân ta học tập suốt đời. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm, chỉ bảo lực lượng Công an nhân dân; Bác luôn ân cần chỉ bảo cho lực lượng Công an về phương pháp đánh giá tình hình, các biện pháp công tác Công an, xây dựng mối quan hệ máu thịt giữa Công an với nhân dân và xây dựng LL CAND trong sạch, vững mạnh. Sinh thời Người đã dặn người Công an cách mạng phải luôn luôn rèn luyện giữ gìn tư cách đạo đức cho đúng là CAND, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm việc. Các thế hệ trong LL CAND đời sau tiếp nối đời trước luôn lấy lời dạy của Bác làm phương hướng, mục tiêu phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt, chăm lo xây dựng LL CAND tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì nhân dân phục vụ, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ an ninh trật tự. Người đã để lại cho LL CAND nhiều di huấn quý báu, trong đó có sáu điều Bác dạy chỉ rõ những phẩm chất đạo đức, tư cách mà mỗi người chiến sĩ CAND cần phải có. Sáu điều Bác Hồ dạy người Công an cách mệnh đã trở thành đạo lý, là nguyên tắc, phương châm, là thái độ đối nhân xử thế, là chuẩn mực về nhân cách mà mỗi CBCS CA dù ở bất kỳ cương vị nào, hoàn cảnh công tác nào trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình cũng đều phải rèn luyện, phấn đấu. Sáu điều Bác Hồ dạy là di sản quý báu thể hiện tư tưởng của Bác về xây dựng phẩm chất đạo đức, tư cách của người CAND suốt đời vì nước, vì dân. 1 Cùng với quá trình mở cửa, đổi mới đất nước, LL CAND đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc. Nhiều tấm gương sáng tiêu biểu hy sinh quên mình đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ nhân dân nêu cao đạo đức của người chiến sĩ cách mạng. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, đất nước ta đứng trước thời cơ và vận hội mới, nhưng cũng phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức không nhỏ. Một mặt, quá trình đổi mới, hội nhập, toàn cầu hóa, quốc tế hóa đã mang lại nhiều lợi ích to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho phát triển đất nước; mặt khác, những tác động của quá trình đó, đặc biệt là tác động của nền kinh tế thị trường, nguy cơ về "diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, sự du nhập các loại hình văn hóa, lối sống thực dụng,... mặt trái của những yếu tố đó đang từng ngày, từng giờ len lỏi vào đời sống xã hội, tác động và làm băng hoại những chuẩn mực giá trị đạo đức trong xã hội nói chung và làm suy thoái tư cách, phẩm chất đạo đức một bộ phận không nhỏ cán bộ, chiến sĩ CAND nói riêng. Những biểu hiện nổi lên như: vi phạm phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; tham ô, tham nhũng, nhận hối lộ; thái độ cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây phiền hà nhân dân; thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, vi phạm pháp luật còn xảy ra ở nhiều nơi, đặc biệt có những vi phạm nghiêm trọng phải truy tố trước pháp luật. Những vi phạm về phẩm chất đạo đức của một phận cán bộ chiến sĩ CAND nói trên, tuy không phải là phổ biến nhưng nó đã làm mất lòng tin đối với nhân dân, gây ảnh hưởng đến uy tín của lực lượng Công an. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải giáo du ̣c tư cách đạo đức của người chiế n si ̃ CAND theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để hoàn thiện nhân cách đội ngũ CBCS CAND trong giai đoạn cách mạng mới. Đối với các trường Công an nhân dân là nơi đạo tạo nguồn nhân lực chủ yếu cho LL CAND. Trong những năm qua, các trường CAND đã đào tạo hàng vạn cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn 2 nghiệp vụ, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và chính quyền nhân dân, giữ gìn sự bình yên của Tổ quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác giáo dục nói chung, giáo dục đạo đức nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế cả trong việc rèn luyện của học viên và cả trong công tác giáo dục của nhà trường. Tình hình đó đòi hỏi cần phải nghiên cứu nghiêm túc, đánh giá đúng thực trạng nhằm đề xuất các khuyến nghị góp phần khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo ra những chuyển biến mới trong công tác giáo dục đạo đức cho học viên các trường CAND, qua đó góp phần xây dựng LL CAND trong sạch, vững mạnh, từng bước chính quy, hiện đại. Với những ý nghĩa nêu trên, tác giả chọn đề tài “Giáo dục đạo đức cho học viên các trường Công an nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung, đạo đức của người Công an cách mệnh nói riêng đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, cũng như trong và ngoài LL CAND. Đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan đến đề tài đã được công bố, trong đó nổi bật là những công trình, tài liệu sau: Thứ nhất, các Văn kiện, văn bản chỉ đạo của Đảng ta về nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, như: - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, XI của Đảng [24],[26]; - Ban Tuyên giáo Trung ương: Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng tấ m gương đạo đức Hồ Chí Minh. [1]; - Ban Tuyên giáo Trung ương: Tư tưởng tấ m gương đạo đức Hồ Chí Minh về nâng cao ý thức trách nhiê, ̣m hế t lòng, hế t sức phụng sự Tổ quố, phục c vụ nhân dân. [3] Các Văn kiện, Chỉ thị của Đảng nói trên đã đề cập đến vị trí, vai trò, nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục việc triển khai học tập, làm theo tấm 3 gương đạo đức Hồ Chí Minh nhằm làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và những giá trị to lớn của tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu rộng về nâng cao đạo đức cách mạng trong mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức … Thứ hai, các công trình, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu về tư tưởng đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài lực lượng Công an: - Thành Duy (1996): Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.[16] - TS. Phạm Văn Khánh (2008):Thấm nhuần tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. [58] - PGS.TS Nguyễn Thế Kiệt (2011): Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay. [60] - Thang Văn Phúc (1998): Đạo đức, phong cách, lề lối làm việc của cán bộ, công chức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. [77] - Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của PGS.TS Đoàn Minh Duệ (1997): Tình hình tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của sinh viên các trường đại học, cao đẳng các tỉnh phía Bắc miền Trung hiện nay. [15] - Bùi Minh Hiển (1996): Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Đại học quốc gia Hà Nội. [38] - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và việc giáo dục đạo đức cách mạng trong lực lượng vũ trang hiện nay, luận văn thạc sĩ triết học của tác giả Nguyễn Quế Diệu(2011) [19]; và rất nhiều các công trình nghiên cứu khác. Các công trình, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học này đã chuyển tải những nội dung cơ bản, nêu bật những giá trị tư tưởng, giá trị thời đại và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đồng thời, phân tích vị trí, tầm quan trọng của từng vấn đề trong tư tưởng Hồ Chí Minh và những gì Người đã làm, đã thực hiện để hiện thực hoá tư tưởng đó, liên hệ với thực thực tiễn và việc vận 4 dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong đời sống của nhân dân, trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Thứ ba, các công trình nghiên cứu, bài viết về lực lượng Công an nhân dân học tập và thực hiện theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. - Đại tướng Lê Hồng Anh: Sáu điều Bác dạy – Di sản tinh thần vô giá để xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh. [74, tr.5] - Trung tướng, PGS.TS. Trần Đại Quang: Tiếp tục đẩy mạnh phong trào Công an nhân dân học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy. [74, tr.31] - Trung tướng, TS. Lê Quý Vương: 60 năm lực lượng Công an nhân dân học tập và thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy. [74, tr.37] - Đại tá Trần Văn Nhuận: Một số vấn đề về phẩm chất đạo đức cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân trong tình hình hiện nay. [74, tr.85] - TS. Nguyễn Văn Giang: Đạo đức cách mạng và yêu cầu giáo dục, rèn luyện đạo đức của “người công an cách mệnh”[74, tr.115]… Những bài viết trên đã phân tích về tư cách, đạo đức của người Công an cách mạng theo sáu điều Bác Hồ dạy CAND. Đây là chuẩn mực về đạo đức, phương châm hành động và thái độ ứng xử mà mỗi CBCS CA dù ở bất cứ cương vị, hoàn cảnh nào, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình cũng đều phải rèn luyện, phấn đấu thực hiện. Đồng thời làm rõ giá trị tư tưởng và việc vận dụng sáu điều Bác Hồ dạy trong công tác công an của LL CAND trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, còn có các Chỉ thị, các cuộc vận động của Bộ Công an; và rất nhiều các công trình, các bài viết khác được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành của LL CAND về thực hiện và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Mặc dù có nhiều đề tài nghiên cứu về đạo đức, đạo đức cách mạng, nhiều bài viết có liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, song mỗi đề tài, bài viết tiếp cận ở những góc độ khác nhau, nhưng chưa có đề tài nào nghiên cứu về GDĐĐ cho HV các trường CAND theo tư tưởng Hồ Chí Minh một cách khoa 5 học, có tính hệ thống. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài này để làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận văn trình bày và đánh giá đúng thực trạng công tác giáo dục đạo đức học viên các trường Công an nhân dân trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cho học viên các trường CAND theo tư tưởng Hồ Chí Minh. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau: + Tổng hợp, khái quát quan điểm Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức và giáo dục đạo đức cho lực lượng Công an nhân dân. + Phân tích, làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức học viên trong các trường Công an nhân dân. + Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức cho học viên trong các trường CAND theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu xây dựng LL CAND dân trong sạch, vững mạnh. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tƣợng nghiên cứu: Công tác giáo dục đạo đức cho HV các trường CAND thuộc Bộ Công an và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác này. - Phạm vi nghiên cứu: + Về không gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức học viên của các Học viện, các trường Đại học và Trung cấp Công an nhân dân, Bộ Công an. (Đề tài không nghiên cứu ở các trường Văn hoá CAND và các Trung tâm Bồi dưỡng nghiệp vụ CAND). 6 + Về thời gian: Đề tài khảo sát, nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức học viên của các trường CAND từ năm 2005 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Đề tài được thực hiện chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức, về giáo dục đạo đức và những luận điểm của Hồ Chí Minh về công tác giáo dục đạo đức trong LL CAND. + Kế thừa kết quả các công trình nghiên cứu khoa học về đạo đức, đạo đức người Công an cách mạng theo tư tương Hồ Chí Minh đã được công bố; tổng hợp, khái quát kết quả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục đạo đức trong LL CAND thông qua phong trào CAND thực hiện sáu điều Bác Hồ dạy. - Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau: Điều tra, khảo sát, phân tích và tổng hợp; lôgíc và lịch sử, khai thác và xử lý số liệu, tổng kết thực tiễn… 6. Đóng góp của luận văn Cung cấp thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn góp phần làm tốt công tác giáo dục đạo đức người chiến sĩ CAND; làm cơ sở cho việc bổ sung vào chương trình giảng dạy nội dung giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường Công an nhân dân. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn được kết cấu thành 02 chương, 05 tiết. 7 Chƣơng 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG CÁC TRƢỜNG CÔNG AN NHÂN DÂN 1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức và giáo dục đạo đức 1.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng Theo quan niệm thông thường, đạo đức còn được xem là khái niệm dùng để chỉ luân thường đạo lý của con người gắn với những giá trị và hành vi ứng xử trên các tiêu chí tốt, xấu, đúng, sai…, và cũng còn được sử dụng với một số hàm nghĩa khác: luân lý, lương tâm, các chuẩn tắc ứng xử đạo đức... Đời sống, phương diện đạo đức là đối tượng và nội dung rất quan trọng và được quan tâm rất sớm của triết học. Nghiên cứu hiện tượng đạo đức, triết học nhấn mạnh khía cạnh sau: Đạo đưc với tư cách là hình thái sớm nhất của ý thức xã hội; là hệ giá trị và hệ thống các quy tắc, thể thức kiểm soát và thực hiện hành vi của con người trong đời sống cộng đồng dưới sự quán xuyến của chủ nghĩa nhân văn. Những cặp phạm trù có tính tương phản như “thiện và ác”, “lòng trắc ẩn và vô cảm’, “vô thượng và vị lợi”… được bàn đến như công cụ nhận diện cái bản chất của các quan hệ đạo đức. Nhưng làm thế nào và bằng cách nào để các giá trị và các chuẩn mực đạo đức của xã hội có thể chuyển thành những giá trị và chuẩn mực hành vi của các cá thể, ngày nay chúng ta có thể thấy những đóng góp quan trọng của các nghiên cứu bởi nhiều khoa học cụ thể khác như đạo đức học, giáo dục học, văn hóa học… Đóng góp của chủ nghĩa Mác-Lênin trong nghiên cứu đạo đức không chỉ ở phương diện xem nó là một trong những hình thái của ý thức xã hội, tức là yếu tố tạo nên kiến trúc thượng tầng của xã hội và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng như thế nào, mà với tư cách là hệ giá trị và những chuẩn mực xã hội điều chỉnh hành vi của con người trong quan hệ với người khác và với công đồng. Căn cứ vào 8 những chuẩn mực ấy, người ta đánh giá hành vi của mỗi người theo các quan niệm về thiện và ác, về cái không được làm (vô đạo đức) và cái nghĩa vụ phải làm. Khác với pháp luật, phương thức điều chỉnh của đạo đức không phải bằng quyền lực, bằng tính cưỡng chế của nhà nước, mà được mọi người thực hiện do sự thôi thúc của lương tâm cá nhân và dư luận xã hội. Đạo đức ra đời và phát triển do nhu cầu của xã hội phải điều tiết mối quan hệ giữa cá nhân và hoạt động chung của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đời sống con người và xã hội loài người, mọi ý thức, quan hệ và hành vi của con người được diễn ra, được thể hiện rất đa dạng và phong phú. Con người không chỉ là chủ thể của những hoạt động sản xuất vật chất, mà còn là chủ thể của các hoạt động tinh thần phong phú trong đời sống xã hội. Trong cuộc sống, con người luôn luôn xây dựng cho mình những lý tưởng sống và những chuẩn mực đạo đức, giúp con người tự giác hành động nhằm vươn tới những giá trị chân, thiện, mỹ. Đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, là toàn bộ những quan điểm, nguyên tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi của con người trong mối quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội. Xét về phương diện xã hội cũng như phương diện hành vi của mỗi cá nhân, đạo đức là sự thể hiện quan hệ ứng xử và hành vi của con người, đem lại lợi ích cho người khác và cho xã hội. Đạo đức thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, và nó là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc xã hội, có cơ sở từ tồn tại xã hội; mặt khác xét về những tiêu chuẩn giá trị, thì những giá trị đạo đức lại nằm ở trong hình thái ý thức. Đạo đức phản ánh đời sống xã hội và nảy sinh do nhu cầu của đời sống xã hội mà trước hết là những nhu cầu phối hợp hành động trong lao động sản xuất vật chất, trong phân phối sản phẩm, trong đấu tranh xã hội để tồn tại và phát triển. Cùng với sự phát triển của sản xuất, của các quan hệ xã hội, hệ thống các 9 quy tắc đạo đức, chuẩn mực đạo đức ngày càng phát triển, ý thức đạo đức cũng theo đó mà ngày càng nâng cao, phong phú, đa dạng và phức tạp. Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp, đồng thời đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế-xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữa lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung và đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội, đồng thời ca ngợi những cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, lòng nhân đạo... Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta có thể đi đến định nghĩa về đạo đức như sau: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, bao gồm một hệ thống những quan điểm, quan niệm, những quy tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội. Nó ra đời, tồn tại và biến đổi từ nhu cầu của xã hội. Nhờ đó, con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [59, tr.12]. Từ định nghĩa này ta rút ra 3 điểm cần chú ý: Một là: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Hai là: Sự điều tiết hành vi của đạo đức mang tính tự giác của con người, mà cơ sở của sự tự giác đó ngoài vai trò của yếu tố ý thức, yếu tố sâu xa đó là lòng trắc ẩn và không vị lợi. Ba là: Tiêu chuẩn giá trị của đạo đức được thể hiện trong giải quyết một cách phù hợp và đúng đắn mối tương quan về mặt lợi ích: lợi ích của cá nhân, lợi ích của xã hội. 10 Lịch sử phát triển của xã hội loài người từ xưa đến nay đã khẳng định vai trò to lớn của đạo đức trong việc duy trì trật tự, ổn định và phát triển xã hội. Đạo đức có tác dụng điều chỉnh ý thức và hành vi của con người cho phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, hướng con người hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với xã hội. Đạo đức còn có tác dụng cảm hoá con người, giúp con người nhận thức và hành động theo lẽ phải, duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Đồng thời đạo đức còn giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, giữ gìn phẩm giá làm thức dậy trong con người những tình cảm tốt đẹp, đó là lòng nhân ái, tính trung thực, thẳng thắn. Đạo đức có vai trò tích cực trong đời sống xã hội, nó như một sức mạnh thôi thúc con người đấu tranh chống lại những cái ác, cái xấu, những cái đi ngược lợi ích của xã hội, nó giữ gìn và phát triển những cái tốt, cái thiện, làm cho xã hội ngày càng phát triển. Trên cơ sở vận dụng thế giới quan và phương pháp luận chủ nghĩa Mác- Lênin, xuất phát từ đặc điểm xã hội và con người Việt Nam, ngay từ đầu của cuộc cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền đạo đức mới - đạo đức cách mạng ở nước ta. Trong một số trường hợp, Người gọi đó là: đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo đức XHCN. Cụm từ được Hồ Chí Minh sử dụng nhiều nhất là đạo đức cách mạng. Đạo đức cách mạng theo cách gọi của Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cộng sản ở Việt Nam. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân” [53, tr.604]; “Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, cũng phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẳn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu. Có như thế mới thắng được địch và thực hiện được nhiệm vụ cách mạng.” [53, tr.606]. Hay “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến quần chúng”[53, tr.609]. 11 Như vậy, đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù rộng lớn, bao trùm nhiều mặt trong đời sống của xã hội nói chung và của từng cá nhân nói riêng. Ngay từ khi bước vào con đường cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức rất rõ ràng và sâu sắc vai trò của đạo đức cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng. Theo Người đạo đức cách mạng khác hẳn về chất so với đạo đức cũ. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời”[49, tr.220]. Tuy không làm chức năng của người nghiên cứu lý thuyết là xây dựng khái niệm hoàn chỉnh về đạo đức cách mạng, song trong những bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã đề cập đến nội hàm của khái niệm đạo đức cách mạng một cách toàn diện về vai trò, về nội dung, về phương thức hiện thực hóa nó trong đời sống xã hội , và thậm trí cụ thể hóa cho từng đối tượng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng bao gồm những nội dung cốt lõi, đó là trung với nước hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. 1.1.1.1. Trung với nước hiếu với dân Phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất của con người Việt Nam là trung với nước, hiếu với dân. Theo quan điểm truyền thống, trung là trung quân, là trung thành với vua, là trung thành với nước. Ở đây vua với nước là một. Hiếu có nghĩa là hiếu thảo với cha mẹ, chữ hiếu chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình. Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống dân tộc mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó. Người nói: “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội,…”[56; tr.435]. Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, với con đường đi lên của đất nước, làm hết sức mình để đất nước ta được độc lập, 12 được giàu mạnh, nhân dân có cuộc sống an toàn, hạnh phúc. Nước ở đây có nghĩa là một quốc gia của dân, còn dân lại là chủ của đất nước. Hiếu với dân không chỉ dừng lại ở chỗ thương dân chung chung mà còn phải dạy dỗ, gắn bó với dân, dựa hẳn vào dân, suốt đời phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh luôn luôn xác định tất cả quyền hành, lợi ích đều xuất phát từ nhân dân và đều của dân. Chính vì vậy, Người nhấn mạnh đến tầm quan trọng cũng như niềm vinh dự của đội ngũ cán bộ: “Chúng ta sống trong một thời đại mà cán bộ đã có vinh dự là một bộ phận của nhân dân làm chủ nước nhà, lại có vinh dự là đày tớ của nhân dân”[50, tr.144]. Sau đó, người tiếp tục căn dặn đội ngũ cán bộ “Cán bộ từ trên xuống dưới, từ Bác đến cán bộ xã đều là đày tớ của nhân dân, không phải là vua, là quan như ngày trước mà đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Tức là cán bộ phải chăm lo đời sống của nhân dân, phải giúp nhân dân tổ chức được tổ đổi công, hợp tác xã, dân quân. Cán bộ phải đến tận nơi giúp đỡ, bao giờ các tổ chức đó thật vững mới thôi”[54, tr.211]. Như vậy, quan niệm về nước và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã hoàn toàn khác so với trước. Là một chiến sỹ cách mạng, Hồ Chí Minh suốt đời chiến đấu vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân” [46, tr.272]. Điều này được thể hiện nhất quán trong cả lời nói và hành động của Người, “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”[46, tr.272]. Người luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên và các thế hệ người Việt Nam là phải phấn đấu hết sức mình vì dân vì nước, “Việc nước là việc chung, mỗi một người con Rồng cháu Tiên, bất kỳ già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện, đều phải gánh một phần”[46, tr.273]. Bên cạnh đó, đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh cho rằng, đạo đức cách mạng không đơn thuần chỉ là “trung với nước, hiếu với dân” mà còn phải “Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”[51, tr.354]. Không những thế, đạo đức cách mạng là phải 13

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net