Một số suy nghĩ về hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Một số suy nghĩ về hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 42‐48 Một số suy nghĩ về hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam Nguyễn Ngọc Chí** Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thuỷ, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 10 tháng 02 năm 2012 Tóm tắt. Từ việc nghiên cứu các xu hướng của việc duy trì hay bãi bỏ hình phạt tử hình và các quy định về hình phạt tử hình trong lịch sử và Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, tác giả đã đặt ra một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt này, đặc biệt là vấn đề loại bỏ hay duy trì hình phạt tử hình trong Luật hình sự cần được tiến hành thông qua thủ tục trưng cầu ý dân. 1. *Hình phạt tử hình đã tồn tại trong Luật hình phạt tử hình. Hẳn mọi người đều biết có “tử tội” sự Việt Nam với cả ngàn năm lịch sử từ khi cứ khăng khăng đòi được chết bằng “hổ đầu hình thành nhà nước, khi pháp luật chưa thành trảm” chứ nhất định không chịu chết bởi “cẩu văn cho tới tận bây giờ. Dưới các triều đại đầu trảm” như lời phán quyết của Bao đại nhân phong kiến Việt Nam, hình phạt tử hình không chỉ vì lý do trước khi bị kết tội anh ta là quan những được coi là biểu tượng thể hiện uy quyền đại thần trong Triều. Thật là bi hài, nhưng nó của nhà nước mà còn là phương tiện trả thù của phản ánh tính thâm căn cố đế của xã hội đẳng người bị hại thông qua nhà nước đối với người cấp phong kiến, đến lúc chết cũng không sợ phạm tội theo kiểu “nợ máu phải trả bằng chết mà chỉ sợ chết không đúng với phẩm vị máu”. Vì vậy, hình phạt tử hình phù hợp với của mình được Nhà vua phong tặng. Chuyển lòng dân, thỏa mãn đòi hỏi được trả thù và phù sang chế độ thực dân do Pháp cai trị hình phạt hợp tư tưởng đạo đức, lễ giáo của xã hội phong tử hình vẫn được duy trì và được coi là công cụ kiến. “Hình phạt tử hình đã được áp dụng từ hữu hiệu đàn áp những người chống lại chế độ thời cổ đại và được ghi nhận trong những văn cai trị hà khắc bằng những cách thức dã man kiện cổ xưa nhất của nhân loại hiện còn lưu giữ mang tính chất khủng bố tinh thần, mà máy được. Thêm vào đó, nhiều phong tục tập quán chém là một trong những ví dụ sinh động về còn tồn tại ở một số bộ lạc hiện nay cũng cho tính dã man của công cụ thi hành hình phạt tử thấy hình phạt tử hình đã là một phần trong cơ hình do thực dân Pháp áp dụng trong suốt gần chế tư pháp của xã hội loài người ngay từ thuở một thế kỷ cai trị đất nước ta. Cách mạng tháng sơ khai”. Không riêng gì Việt Nam mà tất cả Tám thành công, Nước Việt Nam Dân chủ các triều đại phong kiến trên thế giới đều qui Cộng hòa ra đời mang lại độc lập cho đất nước, định hình phạt tử hình trong luật hình sự của tự do, hạnh phúc cho nhân dân và đã có nhiều mình. Chẳng những qui định hình phạt tử hình cải cách mang tính chất cách mạng nhưng hình mà người ta còn nghĩ ra các hình thức thi hành phạt tử hình vẫn được tồn tại trong Luật hình sự hình phạt tử hình sao cho dã man nhất và phân từ đó tới nay. Hình phạt này đã và đang tồn tại biệt được đẳng cấp của người bị áp dụng hình trong các đạo luật hình sự của nhà nước Cộng hòa ______ Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam qua các thời kỳ, tuy * ĐT: 84-4-37547512. đã có xu hướng thu hẹp phạm vi và nhân đạo hơn. E-mail: [email protected] Nhìn ra thế giới, hình phạt tử hình vẫn được duy 42 N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 42‐48 43 trì ở phần đông các quốc gia kể cả ở những quốc hình phạt tử hình quan điểm này thừa nhận nội gia có sự phát triển cao trên nhiều lĩnh vực. Như dung quan trọng, đó là: Việc duy trì hình phạt vậy, sự tồn tại của hình phạt tử hình trong hệ tử hình chỉ là quá độ đến một lúc nào đó khi thống hình phạt có qui luật tồn tại riêng, không điều kiện cho phép sẽ xóa bỏ hình phạt này và thể bỗng chốc có thể xóa bỏ ngay được. trong khi còn duy trì thì phải thu hẹp phạm áp Đã có rất nhiều nghiên cứu về hình phạt tử dụng cũng như tìm ra những hình thức thi hành hình, mà cụ thể là nghiên cứu về sự tồn tại của không gây đau đớn, hoảng loạn cho người phải hình phạt tử hình trong hệ thống hình phạt. Về chịu hình phạt tử. cơ bản có hai quan điểm: Lập luận của hai quan điểm trên đã, đang và (1) Quan điểm xóa bỏ hình phạt tử hình cho sẽ là những cuộc tranh cãi vô tận, bất phân rằng việc duy trì hình phạt tử hình là không thắng bại mà sản phẩm có lẽ là các đề tài, kỷ nhân đạo, là sự vi phạm nhân quyền vì đã tước yếu hội thảo, cuốn sách, các luận văn, luận án bỏ quyền thiêng liêng nhất của con người là thạc sỹ, tiến sỹ mặc dù nó là cần thiết nhưng quyền được sống cho dù với bất kỳ lý do nào; không thể quyết định được việc bỏ hay duy trì Duy trì hình phạt tử hình sẽ không còn điều hình phạt tử hình. Vì vậy, bản chất cho vấn đề kiện giáo dục, cải tạo người phạm tội do đó cốt lõi nêu trên là ở việc nhân dân đã muốn bỏ mục đích của hình phạt không đạt được; Người loại hình phạt tử hình hay chưa. Về nguyên tắc bị áp dụng hình phạt tử hình nếu họ bị oan sẽ nhân dân quyết định mọi vấn đề của đất nước không còn khả năng khắc phục những sai lầm thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc dân của các cơ quan tư pháp. Hình phạt tử hình chủ gián tiếp bằng đại diện của mình tại các cơ không những là biện pháp quá hà khắc đối với quan quyền lực là Quốc hội, Hội đồng nhân dân người phạm tội mà còn gây tổn thương đến các cấp. Duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình là người thân thích của họ nhất là đối với người vấn đề quan trọng nên thường được thực hiện chưa thành niên và cuối cùng hình phạt tử hình bởi hình thức dân chủ trực tiếp - trưng cầu ý không những không làm giảm tình hình tội dân. Trước khi qui định xỏa bỏ hình phạt tử phạm (phòng ngừa chung) mà còn là mầm hình các quốc gia trong khối EU đã đưa vấn đề mống của sự chống đối và bất ổn xã hội; này ra trưng cầu ý dân và đa số họ đã đồng ý. Hiện nay một trong những điều kiện (bắt buộc) (2) Quan điểm duy trì hình phạt tử hình lập để gia nhập EU của quốc gia mới phải chấp luận rằng, không phải duy trì hình phạt tử hình thuận việc bãi bỏ hình phạt tử hình trong hệ là không nhân đạo mà tính nhân đạo thể hiện ở thống hình phạt của quốc gia mình và họ cũng việc trừng trị người phạm tội (số ít) để bảo vệ phải trưng cầu ý dân về sự tồn tại của hình phạt tính mạng và những lợi ích của số đông (tất cả tử hình. Cũng theo xu hướng này, các thiết chế mọi người) trong xã hội là việc làm nhân đạo tư pháp quốc tế trừng trị tội phạm quốc tế lập ra cần thiết và tính nhân đạo còn thể hiện ở việc những năm gần đây đều không qui định hình thi hành hình phạt tử hình làm sao cho “tử phạt tử hình. Qui chế Rome 1988 về Tòa án tội”được “ra đi” nhẹ nhàng nhất, cũng như hình sự quốc tế được thành lập để xét xử đối không mang tính khủng bố tinh thần đối với với những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhất người khác. Ngoài ra, những người ủng hộ quan xâm phạm lợi ích chung của nhân loại là tội diệt điểm này còn đưa ra những lý do sau: không chủng, tội chống nhân loại, tội chiến tranh và duy trì hình phạt tử hình sẽ không ngăn chặn tội xâm lược nhưng cũng không qui định hình được những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng phạt tử hình để áp dụng đối với người phạm tội. xâm hại đến lợi ích chung của xã hội, những Như vậy, việc bỏ hay duy trì hình phạt tử hình quyền tự nhiên, cơ bản, thiết thân của con hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của người dân người như: Quyền sống, quyền an toàn thân trên cơ sở nhận thức và mong muốn của họ. thể… và vì vậy mục đích phòng ngừa chung đối với tội phạm đạt hiệu quả cao… Bên cạnh việc Nghiên cứu việc loại bỏ hình phạt tử hình ở đưa ra các lập luận cho sự cần thiết phải duy trì một số quốc gia thấy rằng ý chí của người dân 44 N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 42‐48 về vấn đề này dựa trên những cơ sở chung (điều tử hình sẽ không cần được sử dụng để thiết lập kiện) nhất định, đó là: lại công bằng xã hội; (1) Kinh tế của đất nước phát triển ở trình (3) Trình độ văn hóa, nhất là văn hóa pháp độ tương đối cao tạo nền tảng làm giảm những lý, văn hóa ứng xử của người dân cao đủ để họ tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tội phạm được không những nhận được tính chất nguy hiểm thực hiện có tính chất dã man, tàn bạo… làm của tội phạm mà còn nhận thức được lòng vị tăng tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. tha trên phạm vi toàn xã hội mới có thể cảm Khi kinh tế phát triển, con người có điều kiện hóa được người phạm tội cho dù họ đã phạm vật chất bảo đảm để họ hành xử một cách văn vào những tội ác nghiêm trọng nhất. Hình phạt minh, hướng tới giá trị nhân cách tốt đẹp thì tử hình ngay từ khi xuất hiện đã mang trong hành vi lệch chuẩn, hành vi phạm tội trong xã mình tính chất trả thù đối với người phạm tội hội sẽ giảm bớt trong đó có những tội gây nguy trước khi nó được “gán” cho các mục đích ngăn hại cao cho xã hội và do đó không cần đến hình chặn, răn đe tội phạm, phòng ngừa riêng, phòng phạt tử hình. Thực tế cho thấy, những nước bỏ ngừa chung… Lúc đầu là sự trả thù giữa các cá hình phạt tử hình đa phần là các quốc gia phát nhân, khi xã hội phát triển sự trả thù đó được triển có thu nhập bình quân đầu người cao, tiềm thông qua nhà nước với vai trò thiết lập lại trật lực kinh tế mạnh. Sự phát triển kinh tế là tiền đề tự, công bằng xã hội đồng thời mang ý nghĩa an có tính chất nền tảng cho việc loại bỏ hình phạt ủi nỗi đau, vuốt ve lòng hận thù của người bị tử hình, nhưng không phải cứ có trình độ phát hại hoặc thân nhân người bị hại. Suy nghĩ, lập triển kinh tế cao đều dẫn đến việc xóa bỏ hình luận này được xã hội xem là hợp tình, hợp lý và phạt tử hình. Bên cạnh tiền đề này còn cần phải được tồn tại như một lẽ đương nhiên. Ngay cả có những điều kiện khác nữa với cơ chế vận giáo lý của các tôn giáo luôn đề cao tinh thần hành theo xu hướng tiến bộ phù hợp với tiến “từ bi”, hỷ sả, cấm sát sinh nhưng vẫn tán đồng trình văn minh của nhân loại mới có thể dẫn và chấp nhận hình phạt tử hình trong một số đến việc loại bỏ hình phạt tử hình trong hệ trường hợp nhất định. “Kinh Cựu ước (quyển 9, thống hình phạt một quốc gia. Vì vậy, chúng ta đoạn 6), trong đó nêu rằng: “Bất kỳ ai làm đổ không ngạc nhiên khi nhiều bang của Hoa kỳ máu người khác, người đó phải bị đổ máu”. vẫn duy trì hình phạt tử hình hoặc tái qui định Kinh Cựu ước qui định hình phạt tử hình đối hình phạt đó sau một thời gian xóa bỏ; với các tội giết người, tội cố ý hành hạ cha mẹ, (2) Xã hội ổn định, an sinh và phúc lợi xã tội nguyền rủa cha mẹ, tội trộm cắp, các tội về hội bảo đảm đời sống cho mọi tầng lớp nhân tình dục, tội báng bổ kinh thánh… Giáo lý của dân nhất là đối với những người có thu nhập các tôn giáo khác cũng có những điều tương tự. thấp hoặc thất nghiệp. Đây là tiền đề về xã hội Nói như vậy để thấy rằng sự tổn tại hình phạt tử tạo điều kiện cho việc loại bỏ hình phạt tử hình hình có nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc văn theo các khuynh hướng tác động sau: Thứ nhất, hóa của con người và chỉ khi nào những yếu tố xã hội phát triển ổn định không có khủng đó thay đổi mới dẫn đến sự thay đổi quan điểm hoảng, không có chiến tranh, không có xung về sự tồn tại của hình phạt tử hình. Văn hóa đột sẽ bớt đi những tội phạm có tính chất tranh được hình thành do sự tác động của nhiều thành dành quyền lực giữa các nhóm lợi ích, các sắc tố, trong đó tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định tộc, tôn giáo do đó, khả năng loại bỏ những tội đến trình độ của nền văn hóa, thể hiện tính nhân phạm có tính nguy hiểm cao cho xã hội tăng lên văn, nhân đạo, xóa bỏ lòng hận thù ở mỗi con nên việc sử dụng hình phạt tử hình sẽ không người. Do vậy, khi xã hội có văn hóa cao sẽ tạo sự còn cần thiết. Thứ hai, an sinh và phúc lợi xã đồng thuận đối với việc xóa bỏ hình phạt tử hình; hội tốt thể hiện khoảng cách giàu, nghèo trong (4) Có nhà nước pháp quyền mạnh để thực xã hội được thu hẹp, bất công xã hội giảm, hiện quyền lực nhân dân trong đó pháp luật ổn quyền con người được bảo đảm sẽ tác động tích định, minh bạch và giữ vai trò tối thượng trong cực đến tình hình tội phạm và do đó hình phạt tất cả các ứng xử của mọi người dân kể cả các N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 42‐48 45 quan chức cao cấp nhất. Đây là điều kiện để tạo 2. Duy trì hay xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật nên sự công bằng xã hội, tạo nên bảo đảm để hình sự là đề tài gây nhiều tranh cãi trên phạm vi công lý có ở mọi lúc mọi nơi và đặc biệt củng toàn cầu. Tuy nhiên, xu hướng chung là hạn chế cố lòng tin của người dân đối với việc thi hành và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình. Nhìn lại việc án của các cơ quan có thẩm quyền, làm cho họ qui định hình phạt tử hình trong Luật hình sự yên tâm khi các hình phạt khác có thể đảm nước ta từ 1945 đến nay cũng đã thể hiện khuynh đương được vai trò của hình phạt tử hình; hướng này. Nếu Bộ luật hình sự (BLHS) 1985 (5) Nhà nước, xã hội tạo ra được nhiều biện (Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam) sau nhiều pháp có thể thay thế hình phạt tử hình. Nếu bỏ lần sửa đổi bổ sung còn 44 điều luật qui định hình hình phạt tử hình, một logic tư duy thông phạt tử hình thì BLHS 1999 chỉ còn qui định hình thường sẽ dẫn đến câu hỏi chúng ta có biện phạt tử hình ở 29 điều luật. Trước yêu cầu cải pháp gì thay thế để bảo đảm cho mục đích, vai cách tư pháp theo các Nghị quyết của Đảng, Luật trò của hình phạt tử hình được thực thi mà suy sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS (năm cho cùng là mục đích ngăn chặn, phòng ngừa 2009) đã xóa bỏ hình phạt tử hình ở các điều luật tội phạm và lợi ích xã hội có được duy trì hay qui định 8 tội phạm [1], đó là: Tội hiếp dâm (Điều không. Trả lời câu hỏi này, nhà nước ngoài việc 111); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139); qui định các hình phạt thay thế phải tiến hành Tội buôn lậu (Điều 153); Tội làm, tàng trữ, vận đồng bộ các biện pháp quản lý, giáo dục, cải tạo chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu, công trái người phạm tội có hiệu quả tác động đến nhận giả (Điều 180); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất thức, tâm lý của người dân. Những điều kiện ma túy (Điều 197); Tội chiếm đoạt máy bay, tàu nêu trên được vận hành trong xã hội sẽ tạo ra thủy (Điều 221); Tội đưa hối lộ (Điều 289), Tội nhiều khả năng để thay thế cho hình phạt tử phá hoại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật hình mà vẫn bảo đảm được mục đích trừng trị, quân sự (Điều 334). Như vậy, BLHS hiện hành ở giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa nước ta chỉ còn 22 điều luật qui định hình phạt tử riêng và phòng ngừa chung của hình phạt. hình (do Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Những khả năng này thể hiện ở việc Luật hình BLHS (2009) đã tách Tội khủng bố thành hai tội: sự qui định các loại, mức và hình thức hình phạt Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân thay thế hình phạt tử hình, chẳng hạn đối với (Điều 84) và Tội khủng bố (Điều 230a thuộc các tội phạm kinh tế ngoài hình phạt tù còn có các hình phạt có tính chất kinh tế thật nghiêm chương Các tội xâm phạm trật tự, an toàn công khắc có thể thay thế hình phạt tử hình áp dụng cộng), hai tội phạm này đều qui định hình phạt tử đối với người phạm tội. Bên cạnh đó xã hội còn hình). tạo những tiền đề vật chất để có thể cải tạo, cảm Việc duy trì 22 tội phạm có qui định hình hóa được người phạm tội. Tất cả các khả năng, phạt tử hình của BLHS hiện hành cũng gây ra tiền đề nói trên tác động đến nhận thức của nhiều tranh luận của các nhà nghiên cứu, hoạt người dân làm cho họ thấy rằng không nhất động thực tiễn và trong xã hội. Những năm gần thiết phải tước bỏ tính mạng của người phạm đây, ở nước ta đã có nhiều hội thảo, hội nghị, tội cho dù họ phạm vào những tội ác nghiêm các nghiên cứu về sự tồn tại của hình phạt tử trọng nhất thì cuộc sống của họ và xã hội vẫn hình trong hệ thống hình phạt. Các nghiên cứu bình yên. Cũng chính vì vậy, lòng vị tha, tính đã chỉ ra cơ sở lý luận, thực tiễn của vấn đề và nhân đạo ở mỗi con người cũng như toàn xã hội đặc biệt nhấn mạnh đến xu thế hội nhập quốc tế được trỗi dậy, được bảo đảm bằng những cơ chế hiện nay đòi hỏi phải có sự tương thích pháp pháp luật cho nên không có gì vô nghĩa hơn, phi luật làm lập luận cho quan điểm của mình. nhân tính hơn việc tước bỏ cuộc sống của người Chúng tôi có quan điểm về vấn đề này như sau: phạm tội. Người dân đã đi theo logic này và nhà Thứ nhất, tại thời điểm hiện nay và một vài nước chỉ thực hiện công việc phản ánh ý chí đó chục năm tiếp theo ở Việt Nam vẫn nên duy trì của nhân trong các qui phạm pháp luật. hình phạt tử hình do những tiền đề, điều kiện để 46 N.N. Chí / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 28 (2012) 42‐48 xóa bỏ hình phạt tử hình chưa hình thành rõ nét. điểm kinh tế, xã hội, văn hóa và ý thức pháp luật Như đã phân tích ở phần trên, các điều kiện của người dân đối với hình phạt tử hình. Nói cách kinh tế, xã hội, văn hóa, pháp lý… của chúng ta khác, người dân Việt Nam chưa sẵn sàng cho việc đang còn ở mức độ thấp chưa đủ tạo ra những loại bỏ hình phạt tử hình trong cơ cấu của hệ bảo đảm cho việc thay thế cho hình phạt tử hình thống hình phạt nước ta. Nếu ngay lập tức bãi bỏ mà vẫn thực hiện được mục đích của hình phạt, hình phạt tử hình dễ dẫn đến phản ứng của người duy trì được trật tự xã hội. Chúng tôi nhấn dân, gây bất ổn xã hội. mạnh đến tiền đề văn hóa và sự nhận thức của Thứ hai, việc duy trì hình phạt tử hình người dân về hình phạt tử hình. Theo các khảo trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, tuy nhiên sát mới đây có thể thấy đa phần người dân coi cần thu gọn phạm vi áp dụng loại hình phạt này. việc có hình phạt tử hình trong cơ cấu của hệ Việc thu gọn hình phạt tử hình cần được tiến thống hình phạt là một lẽ đương nhiên mà thiếu hành trên các bình diện sau: nó là sự trống vắng, sự không công bằng của pháp luật, nhất là đối với vụ án về tham nhũng (1) Ở bình diện lập pháp, cần có sự khảo hoặc những vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm sát, đánh giá toàn diện để có cơ sở tiếp tục loại trọng gây ra hậu quả đặc biệt lớn. Với 4 câu bỏ thêm một số điều luật có qui định hình phạt hỏi: (1) Xóa bỏ hình phạt tử hình trong hệ thống tử hình trong BLHS hiện hành. Khi đánh giá hình phạt; (2) Duy trì hình phạt tử hình; (3) Hạn cần dựa vào những tiêu chí chủ yếu sau: Điều chế áp dụng hình phạt tử hình; (4) ý kiến khác kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước; Thái thì tỷ lệ tương ứng trong tổng số nhưng người độ của người dân đối với việc loại bỏ hình phạt tham gia trả lời là: 37, 82% (222 người); 5, 96% tử hình ở một tội phạm cụ thể; Các giải pháp (35 người); 51, 96% (305 người); 4, 26% (25 trấn áp và giáo dục cải tạo đối với người phạm người) của Dự án “Khảo sát tác động ngăn tội khi hình phạt tử hình được xóa bỏ; Tính ngừa của một số hình phạt trong Bộ luật hình sự chất, mức độ nguy hiểm và tác hại của tội phạm Việt Nam năm 1999 được tiến hành bởi nhóm đối với xã hội cũng như tầm quan trọng của chuyên gia Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà khách thể cần được bảo vệ ở một tội phạm cụ Nội [2]. Nếu cộng tỷ lệ câu hỏi (2) + (3) của thể; Sự tương thích về biện pháp trừng trị trong những người đồng tình với việc duy trì hình mối quan hệ so sánh giữa tội phạm được qui phạt tử hình là 57, 92 sẽ cao hơn tỷ lệ 37, 82% định trong BLHS hiện hành với các điều ước của những người ủng hộ quan điểm loại bỏ hình quốc tế mà chúng ta tham gia, cũng như xu phạt này. Như vậy, đa số người dân vẫn có hướng chung của cộng đồng quốc tế về vấn đề quan điểm muốn duy trì hình phạt tử hình trong này. Trên cơ những tiêu chí vừa nêu, theo điều kiện đất nước hiện nay. Vụ án cướp tiệm chúng tôi nên loại bỏ hình phạt tử hình ở những vàng ở Bắc Giang xảy ra năm 2011 là minh tội phạm sau trong tổng số 22 điều luật còn qui chứng cụ thể cho nhận định này. Mặc dù bị cáo định hình phạt này của BLHS, đó là: phạm vào những tội đặc biệt nghiêm trọng: Tội - Nhóm các tội phạm có tính chất kinh tế: giết người (3 người trong đó có 1 trẻ em), Tội Khi thực hiện những tội phạm này về thực chất cướp tài sản, Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm người phạm tội hướng tới mục đích thu được đoạt tài sản với nhiều tình tiết tăng nặng nhưng lợi ích về kinh tế bằng những thủ đoạn phạm tội do bị cáo chưa đủ 18 tuổi tại thời điểm thực khác nhau, trong đó có cả các thủ đoạn được hiện tội phạm nên theo qui định của pháp luật qui định ở Tội tham ô, Tội nhận hối lộ thuộc bị cáo sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình. nhóm tội phạm tham nhũng. Cơ sở để loại bỏ Biết được điều này nhiều người dân đã tỏ thái hình phạt tử hình đối với nhóm tội phạm này là độ bức xúc trên các phương tiện truyền thông do điều kiện kinh tế ngày càng phát triển nên và người đại diện cho các cơ quan tiến hành tố tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội tụng của tỉnh Bắc Giang đã phải giải thích, trấn giảm theo tỷ lệ nghịch ngược lại. Đặc biệt, khi án dư luận. Thái độ đó ẩn chứa các điều kiện, đặc kinh tế phát triển, xã hội ổn định, chúng ta sẽ có

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net