Tiểu luận hcm người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với cnxh, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (15)

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Tiểu luận hcm người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với cnxh, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (15)

Đề bài: Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh có viết : “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo” . Hãy phân tích và chứng minh nhận định trên. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay. BÀI LÀM: Bác là người việt nam đẹp nhất,là tượng trưng cho những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn,ý chí, nhân cách của dân tộc và của loài người . Độc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai.Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của chủ tịch Hồ Chí Minh có viết : “ Người không chỉ là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà còn là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ,tự lực tự cường , đổi mới và sáng tạo”. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ vô cùng chặt chẽ,tác động qua lại lẫn nhau. Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với nhau.Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược: chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt lên trên 1 hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và Người nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám (khóa I) 5-1941.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc lập giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ.Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì". Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập dân tộc.Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc 2 lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người già, đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết là 3 không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời: “Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lê- nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách nô dịch 4 của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói : “Nhưng nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Và “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội “trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là 5 tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đường lối đó là cơ sở cho tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng, cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975, cũng như thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trên phạm vi cả nước hiện nay. Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân 6 dân ta với đế quốc xâm lược. Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay. Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng dễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ.Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc 7 đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam. Nổi bật lên trong tấm gương cao đẹp của người là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường đổi mới và sáng tạo.Đây là một vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện trước hết trong việc hoạch định đường lối, chính sách, phương pháp, bước đi của con đường cách mạng nước ta. Tấm gương Bác Hồ trước hết là những sáng tạo vươn tới đỉnh cao trong cuộc đồi sự nghiệp của người.Bác là nhà hoạt động thực tiễn vĩ đại,với tư duy độc lập tự chủ ,đã vận dụng tài tình, nhuần nhuyễn những tinh hoa của dân tộc và thời đại để sang tạo nên một hệ thống tư tưởng của mình,soi đường thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, ngay đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất Pháp, Người đã nói "Tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn"; về sau Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân tộc đã tự cường, tự lập". Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường đó đã được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó, những nét lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt Nam đã được khẳng định. Người đã xây dựng chính Đảng vô sản ở một nước thuộc địa ,nửa phong kiến với nét độc đáo của Việt Nam từ bài học của chính con đường người đã trải qua.Người đã khai sinh và xây dựng một nhà nước kiểu mới của dân,do dân và vì dân để vừa kháng chiến vừa kiến quốc,vừa chống Mỹ cứu nước vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội dẫn tới thắng lợi hoàn toàn hai cuộc kháng chiến.Bác Hồ là bậc thầy sáng tạo về phương pháp cách mạng. Độc lập dân tộc 8 gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.Người đã chỉ ra để mỗi người Việt Nam hiểu rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải phóng mình, không nên chỉ trông chờ "công nông Pháp cách mệnh thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ được tự do" mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ". Chính những luận điểm sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử. Tháng 8- 1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính quyền, Người đòi hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”. Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do". Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Người đề cao 9 việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều.Tấm gương Bác Hồ là mẫu mực của tinh thần tự lực tự cường,đã vượt qua nhưng khó khăn thử thách lớn lao.Hơn 30 năm ở nước ngoài Người đã phải tự kiếm sống để hoạt động,vượt qua mọi theo dõi ,đe dọa,lung bắt của mạng lưới thực dân đế quốc, vượt qua hai lần bị tù đày và án tử hình. Cách đây 40 năm, khi Mỹ thực hiện cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, chúng đã huy động một lực lượng khổng lồ máy bay và các phương tiện kỹ thuật hiện đại của lực lượng không quân, hải quân tiến hành cuộc đánh phá ồ ạt vào các mục tiêu quan trọng của miền Bắc nhằm thực hiện “ảo vọng” đưa miền Bắc nước ta trở về “thời kì đồ đá”. Trong bối cảnh đó Bộ Tư lệnh Không quân mang phiên hiệu công khai là sư đoàn 371 đã được thành lập. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của quân đội nhân dân Việt Nam.Suốt cuộc đối đầu không cân sức với không quân Mỹ,lớp lớp cán bộ, chiến sỹ, công nhân viên quốc phòng của Sư đoàn đã nỗ lực vượt bậc, khắc phục mọi khó khăn, sáng tạo nhiều cách đánh thông minh, táo bạo, từ phi công đến cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, tham mưu, dẫn đường, nhân viên kỹ thuật, hậu cần… đều chung một ý chí . Cán bộ chiến sỹ phi công của sư đoàn đã đánh địch cả trên không, trên biển, trên đất liền, đánh địch cả ban ngày và ban đêm. Lớp phi công nào cũng lập công, loại máy bay nào cũng đánh thắng, trong bất kì tình huống nào cũng đảm bảo xuất kích tiêu diệt địch. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, phi đội Quyết thắng của sư đoàn đã dùng máy bay địch xuất kích ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, làm cho chúng suy sụp tinh thần, thúc đẩy quá trình tan rã hoàn toàn của địch.Bản thân Bác còn là nhà thơ, nhà văn, nhà cách mạng vĩ đại,là người mở đầu và đặt nền móng cho nền văn xuôi cách mạng ở nước ta.Nhà văn kiệt xuất Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một thời đại mới,một nền văn học mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. 10 Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngay trong lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học tập bạn bè, những nước đi trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, rập khuôn; đã xác định đường lối đổi mới với các bước đi thích hợp.Chúng ta đã thực hiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,mở cửa hội nhập,tiếp thu những thành tựu mới của thế giới hiện đại để giải phóng,phát triển sản xuất,để mỗi bước phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội. Thắng lợi của 17 năm đổi mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trong giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên. Hiện nay trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, nhanh chóng, trên cơ sở những quan điểm có tính nguyên tắc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ hết, càng phải phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang tận dụng mọi khả năng để thu hút ngày một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng cần khẳng định rằng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản thân nhân dân ta, do trí tuệ và sức lực của dân ta. Văn kiện Đại hội IX viết: "Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước". Trong một thế giới ngày càng hội nhập và phụ thuộc lẫn nhau, vấn đề nâng cao tinh thần độc lập tự chủ được đặt ra một cách cấp bách. Đó là đòi hỏi tất yếu của các nước đang phát triển khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế.Bước vào thời kỳ đổi mới, nhất là từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô tan rã, chúng ta đứng trước tình thế vô 11 cùng ngặt nghèo, bất lợi cho sự nghiệp cách mạng: chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào; đất nước ta bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị. Nhờ những chủ trương đúng đắn sáng tạo của Đảng, với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập tự chủ, đất nước đã vượt qua mọi khó khăn, từng bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực đối ngoại, chúng ta đã dần bóc dỡ từng lớp tường ngăn cách ta với các nước, mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới; khai thông và củng cố quan hệ với các tổ chức quốc tế, từng bước tham gia hội nhập khu vực, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Như vậy, chúng ta không những vẫn đứng vững và phát triển trong điều kiện phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới rơi vào khủng hoảng mà còn giành được nhiều thành tựu quan trọng trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Bài học về giữ vững và phát huy tinh thần độc lập tự chủ trong tiến trình hội nhập ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, chỉ có điều cần biết vận dụng nó cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và đặc thù của đất nước và những biến đổi to lớn của bối cảnh quốc tế và khu vực.Tham gia vào các tổ chức kinh tế thương mại của thế giới và khu vực, đặc biệt là Tổ chức thương mại thế giới (WTO) mang lại cơ hội phát triển hiếm có, song cũng đặt ra những thách thức gay gắt cho các quốc gia thành viên. Không phải nước nào tham gia hội nhập cũng đều nhận được lợi ích như nhau. Do vậy, để bảo đảm lợi ích tối đa, các quốc gia không những phải có chiến lược, sách lược hội nhập đúng đắn, mà còn phải nâng cao tinh thần độc lập tự chủ. Trong một đấu trường canh tranh nghiệt ngã này, không có chỗ cho sự non yếu, kém hiểu biết.Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết giữa các nền kinh tế, tham gia phân công lao động quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế đa phương theo những quy định chung. Thông thường, trong điều kiện nền kinh tế không mở cửa hội nhập thì chỉ tăng trưởng với tốc độ tối đa là 4 đến 5% . Nhìn lại lịch sử cận đại của dân tộc, chúng ta thấm thía về cái giá của sự thiển cận mà vua quan triều.Nguyễn phải trả đó là sự bế quan toả cảng, khước từ mọi lời tâu sáng suốt mà sứ giả Nguyễn Trường Tộ là một điển hình. Càng 12

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net