Tiểu luận hcm người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với cnxh, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (5)

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Tiểu luận hcm người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với cnxh, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (5)

Nội dung bài tập: Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo”. Hãy phân tích và chứng minh nhận định trên? Liên hệ với thực tiễn Việt Nam hiện nay? Bài làm: I.Đặt vấn đề Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), trong văn kiện của mình, Đảng ta đã xác định vai trò, ý nghĩa, giá trị to lớn của đường lối chính trị, tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đến Đại hội VII (1991), Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong thế kỷ XX, tiếp tục có ý nghĩa quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng, Nhà nước và xã hội Việt Nam trong thế kỷ XXI. Đại hội lần thứ IX của Đảng (2001) khẳng đinh: "Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Đại hội Đảng chỉ rõ: "Tư tưởng Hồ chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại". Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta quyết tâm phấn đấu làm cho Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin ngày càng giữ vai trò chủ đạo 1 trong đời sống tinh thần, tư tưởng của xã hội ta, được quán triệt sâu sắc vào các hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thời kỳ mới. Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 105 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định : “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo”. II.Giải quyết vấn đề Thứ nhất, Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội (CNXH). Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một trong những nội dung cốt lõi nhất trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, là tư tưởng chính trị đặc sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà Người đã lựa chọn. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH. a.Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc: Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản được thể hiện trên những luận điểm cơ bản sau đây: Một là, độc lập dân tộc phải là độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn với đầy đủ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đối với một người dân mất nước, cái quý nhất trên đời là độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: Cái mà tôi cần nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…Hồ Chí Minh là người đã đưa ra chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “không có gì quý hơn 2 độc lập tự do”. Đó không chỉ là lý tưởng mà còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là lý do chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng, nguồn động viên đối với các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam phải do người Việt Nam tự giải quyết. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận sự can thiệp dưới bất cứ hình thức nào. Theo Hồ Chí Minh quyền độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng, là trên hết, dù có phải hy sinh đến đâu cũng phải giành và giữ cho được quyền độc lập ấy. Hai là, Giá trị thực sự của độc lập dân tộc phải được thể hiện ở các quyền tự do và hạnh phúc mà nhân dân được hưởng. “Nếu nước được độc lập, mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Độc lập dân tộc phải được đặt trong khối thống nhất bền vững, đoàn kết chặt chẽ của các tộc người, các miền tổ quốc, giữa các tôn giáo và tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân yêu nước, đồng bào trong nước và kiều bào ở nước ngoài. Ba là, Độc lập dân tộc trong hòa bình chân chính. Hồ Chí Minh luôn là người đi đầu, chủ động tích cực bày tỏ ước vọng và tìm mọi giải pháp cho sự nghiệp bảo vệ hòa bình, hết sức tránh xung đột, tránh chiến tranh. Năm 1946 Người cùng với Trung ương Đảng chủ động ký hiệp định sơ bộ 6-3, rồi chính Người trực tiếp ký tạm ước 14-9 với Chính Phủ Pháp với mong muốn giải quyết cuộc tranh chấp bằng con đường hòa bình. Khi thực dân Pháp khiêu khích gây xung đột, Hồ Chí Minh đã kêu gọi nhân dân Việt Nam kiên trì thi hành những điều khoản đã ký trong tạm ước. Đồng thời người cũng kêu gọi những người Pháp vì lợi ích của hai dân tộc Việt- Pháp mà chấm dứt những hành động khiêu khích. Khi chiến tranh nổ ra, trên cơ sở kiên quyết kháng chiến đến cùng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, Hồ Chí Minh vẫn luôn bày tỏ mong muốn sẵng sàng đàm phán với chính phủ Pháp để kết thúc cuộc chiến tranh, lập lại hòa bình, tránh làm tổn hại tiền của, xương máu của hai dân tộc. 3 Bốn là, kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với CNXH, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế. Chủ nghĩa yêu nước với tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất nước. Xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền thống dân tộc Việt nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để rơi vào tay giai cấp nào khác., phải nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tư tưởng này vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đến Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: quyền tự do, độc lập là quyền bất khả xâm phạm của các dân tộc. Là một chiến sĩ quốc tế chân chính, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập của dân tộc mình mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức. Chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn luôn thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng ở Hồ Chí Minh. b. Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng bản chất của CNXH bao gồm: CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH. CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. 4 CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giaỉ phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi. CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tóm Lại: Quan niệm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ biện chứng với nhau, gắn liền nhau, phản ánh quan điểm cách mạng không ngừng, một quá trình vận động liên tục của lịch sử cách mạng Việt Nam, gồm hai giai đoạn, mỗi giai đoạn ứng với mỗi nhiệm vụ nhất định của tiến trình phát triển. Điều này đã được Hồ Chí Minh khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng: Việt Nam làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” nhằm “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” “làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”, “dựng ra chính phủ công nông binh” để đi lên CNXH. 2. Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh: a..Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH - Giành độc lập dân tộc để đi lên CNXH, điều này khác với các bậc tiền bối yêu nước trước đó- họ mới chỉ đề cập đến việc giành độc lập dân tộc mà chưa gắn bó giữa độc lập dân tộc với tiến bộ xã hội, với CNXH. - Để có độc lập thật sự cho dân tộc, tự do, hạnh phúc hoàn toàn cho nhân dân không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. 5 - Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản, là một trong những “cái cánh” của cách mạng vô sản. Gắn cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam với cách mạng thế giới, đưa dân tộc ta vào quỹ đạo của thời đại, đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đây là một phát hiện, một sáng tạo lớn về con đường phát triển cách mạng ở các nước thuộc địa nữa phong kiến. - Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH phù hợp với nguyện vọng của dân tộc Việt Nam và xu thế của thời đại quá độ lên CNXH được mở đầu từ cách mạng tháng mười Nga (1917). - Tư tưởng đó được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn của nó cho đến hôm nay. (Đại hội X của Đảng một lần nữa khẳng định: Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng HCM). b. Giành độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề đi lên CNXH: Thứ nhất, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin về vấn đề giải phóng dân tộc và giai cấp: các ông cho rằng: phải giải phóng giai cấp trước thì mới giải phóng được dân tộc và vấn đề giải phóng dân tộc phải phụ thuộc vào vấn đề giải phóng giai cấp. Trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản Mác- Ăngghen đã chỉ rõ “hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”. Lê Nin cũng cho rằng cần phải ưu tiên đặt vấn đề giải phóng giai cấp vô sản trước: “Các dân tộc phải sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì sự giải phóng giai cấp vô sản chống chủ nghĩa thực dân thế giới”. Thứ hai, theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề giải phóng dân tộc và giai cấp: Vận dụng sáng tạo quan niệm của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và điều kiện thuộc địa. Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải giải phóng dân tộc, giành 6 độc lập cho dân tộc trước, coi việc giành độc lập cho dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, còn giải phóng giai cấp từng bước thực hiện. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ: Xuất phát từ điều kiện xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nữa phong kiến từ đó mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh nhiệm vụ dân tộc, xác định mục tiêu trực tiếp, cốt yếu của cách mạng Việt Nam là giành độc lập dân tộc, nhưng không quên nhiệm vụ dân chủ, trong khi thực hiện nhiệm vụ dân chủ, trước hết phải nhằm phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh. Cương lĩnh chính trị đầu tiên Hồ Chí Minh chủ trương “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng”. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941) xác định hơn bao giờ hết vấn đề dân tộc giải phóng, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập dân tộc lúc này cao hơn hết thảy. “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh xác định: “ về mục đích trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn”. Như vậy, theo quan niệm của Hồ Chí Minh, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu cần phải giải quyết trước tiên, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết của cách mạng. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa: Là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, biến Việt Nam thành một nước có lực lượng sản xuất hiện đại, văn hóa tiên tiến, nhân dân làm chủ. Như vậy, hai giai đoạn cách mạng nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhiệm vụ giai đoạn trước hoàn thành tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của giai đoạn sau và không ngừng phát triển theo một quy luật dẫn tới mục đích. 7 c. Xây dựng CNXH là tạo những cơ sở giữ vững và phát triển độc lập dân tộc: - Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là mục tiêu, là tiền đề đi lên CNXH, còn CNXH là phương hướng phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu xa của cách mạng Việt Nam. - Cách mạng xã hội chủ nghĩa là làm cho cách mạng DTDC được tiến hành triệt để; đồng thời tạo ra những cơ sở đảm bảo cho nền độc lập dân tộc được giữ vững và ngày càng củng cố, phát triển. - Với các thiết chế kinh tế, chính trị và nền tảng tinh thần riêng, chủ nghĩa xã hội có khả năng vận động phát triển liên tục, bảo vệ vững chắc các thành quả cách mạng của nhân dân và nền độc lập của dân tộc. - Hồ Chí Minh đã thực hiện việc xây dựng CNXH trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. 3.Đối với con đường phát triển Việt Nam hiện nay 1. Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng HCM: - Đại hội VI của Đảng, đã mở ra thời kỳ đổi mới toàn diện của đất nước. Đại hội đã rút ra những bài học lớn trong đó bài học đầu tiên là “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta….”. - Đại hội VII, VIII, IX, X tiếp tục hoàn thiện, phát triển đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng và một lần nữa khẳng định: “trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. - Thực hiện đổi mới, Đảng ta khẳng định: đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà là làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. 8 - Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. - Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. - Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn nhạy bén với cái mới. 2. Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới là thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong đổi mới như Đảng ta khẳng định là thực hiện sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ XD và bảo vệ Tổ quốc. Qua 20 năm đổi mới đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị- xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao… Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội XHCN và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản. Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH tiếp tục soi sáng là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Thế kỷ XXI mở đầu thiên niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng 9 quốc tế. Mãi mãi giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bước vào thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới. Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tổng hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân ta trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đây là một đóng góp về lý luận vào kho tàng của chủ nghĩa Mác-Lênin, vào lý luận cách mạng xã hội trong thời đại ngày nay. Thứ hai, Bác Hồ là một mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo Vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là ý chí "không có gì quý hơn độc lập tự do", là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, thể hiện trước hết trong việc hoạch định đường lối, chính sách, phương pháp, bước đi của con đường cách mạng nước ta. Từ khi ra đi tìm đường cứu nước, ngay đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất Pháp, Người đã nói "Tổ tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn"; về sau Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân tộc đã tự cường, tự lập". Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Con đường đó đã được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua, 10 trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó, những nét lớn trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt Nam đã được khẳng định. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Từ những năm 20 của thế kỷ trước, trong khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh đã nêu rõ rằng ở phương Đông có những đặc điểm khác với phương Tây mà thời mình Mác chưa có điều kiện nghiên cứu, đồng thời mỗi dân tộc lại có những đặc điểm riêng. Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác khởi thảo, một tư tưởng cơ bản được nêu lên là: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải do bản thân giai cấp công nhân tự giành lấy" (4). Hơn sáu mươi năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em". Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Người đã chỉ ra để mỗi người Việt Nam hiểu rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải phóng mình, không nên chỉ trông chờ "công nông Pháp cách mệnh thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ được tự do" mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng dễ". Chính những luận điểm sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử. 11 Tháng 8-1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính quyền, Người đòi hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ: "Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà". Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do". Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Người đề cao việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn, đặc biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngay trong lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học tập bạn bè, những nước đi trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, dập khuôn; đã xác định đường lối đổi mới với 12 các bước đi thích hợp. Thắng lợi của 17 năm đổi mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trong giáo dục và rèn luyện cán bộ, Đảng viên. Tính sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ trung thành với những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác Lê nin, đồng thời khi nghiên cứu và vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp với điều kiện cụ thể của đất nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học thực tiễn, và hiệu quả.. Vấn đề này, chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo, lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ thực tiễn sinh động”. Lịch sử đã chứng minh điều này chẳng hạn như con đường khởi nghĩa của cụ Hoàng Hoa Thám vẫn mang nặng “cốt cách phong kiến”, theo lối cách cũ nên đã thất bại Trong văn kiện của Đại hội toàn quốc lần thứ VII cũng nhận định rằng: “tư tưởng HCM chính là kết quả sự vận dụng sáng tạo của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và cả dân tộc” Chủ nghĩa Mac Lenin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, nguồn gốc tư tưởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là người trung thành nhưng sáng tạo và phát triển CN Mac Lenin vào điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh và sự nghiệp của Đảng ta, của Cách mạng Việt Nam, thông qua tổng kết thực tiễn, đã góp phần làm phong phú, bổ sung và phát triển các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lê nin. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mac Lenin là sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN Mac Lenin vào điều kiện thực tế Việt Nam, vì vậy TTHCM và CN Mac Lenin có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ, thống nhất. 13 Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn bám sát thực tiễn cách mạng dân tộc và thế giới, coi trọng tổng kết thực tiễn. Hồ Chí Minh được xem là một nhà lý luận - thực tiễn xem chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Sự sáng tạo cách mạng Hồ Chí Minh trước hết là sự sáng tạo về tư suy lý luận, về chiến lược, về đường lối cách mạng. Điều đó giữ vai trò quyết định hàng đầu dẫn đến thắng lợi cách mạng. Vì vậy mà tư tưởng Hồ Chí Minh đã tỏa sáng vượt ngoài biên giới quốc gia Việt Nam, đến với các dân tộc và nhân dân lao động thế giới. Kết hợp với lý luận của Mac Lê Nin về Đảng Cộng Sản với thực tiễn Cách Mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac Lenin trên một loạt vấn đề cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nên một lý luận cách mạng giải phóng dân tộc, lý luận đó không chỉ được truyền bá trong phong trào công nhân mà còn cả trong phong trào yêu nước, giải quyết vấn đề đường lối cứu nước gắn liền với sự chuẩn bị những điều kiện về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng ở Việt Nam, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng Sản Việt Nam. Phát triển sáng tạo học thuyết Mac Lenin về Đảng Cộng Sản, Người cho rằng “Đảng Cộng Sản Việt Nam là Đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam, đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự tổ quốc và nhân dân” Khi khẳng định Đảng cộng sản việt nam là Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nêu một luận điểm quan trọng, bổ sung thêm cho lý luận của chủ nghĩa Mac Lenin về Đảng Cộng Sản, định hướng cho việc xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam thành một Đảng có sự gắn kết chặt chẽ với giai cấp công nhân, với nhân dân lao động và cả dân tộc trong mọi thời kì của Cách mạng Việt Nam. Mọi người Việt Nam yêu nước, dù là đảng viên hay không, đều thật sự cảm nhận Đảng Cộng Sản Niệt Nam là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình và đều gọi là “Đảng ta”. 14 Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng tiên phong phù hợp với thực tiền Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình. Trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng Người xác định lực lượng cách mạng bao gồm cả dân tộc: đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, tập hợp đại bộ phận nông dân và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, lãnh đạo nông dân làm cách mạng ruộng đất, lôi kéo tiểu tư sản trí thức, trung nông... đi vào phe vô sản giai cấp; đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản mà chưa rõ phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít nhất là làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã làm rõ là phản cách mạng thì phải đáng đổ. Cũng như trong CN Mac Lenin, Hồ Chí Minh cũng hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức bóc lột nặng nề nhất nên lòng cách mạng càng bề, chí càng quyết... từ đó người khẳng định: công nông là gốc cách mệnh => đây cũng là một nhận thức mới mẻ so với những nhà yêu nước trước đó. Tuy nhiên khác với CN Mac Lenin, trong khi nhấn mạnh vai trò của liên minh công nông thì Người cũng không côi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các tầng lớp, giai cấp khác. Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng. Người chỉ rõ; “... học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” Với sự thông minh sáng tạo của mình, vào thời kỳ 1945-1969 khi nước ta lâm vào tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” cũng một lúc đối đầu với nhiều kẻ thù, Hồ Chí Minh đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam qua thác ghềnh hiểm trở bằng sách lược khôn khéo, mềm dẻo, thêm bạn, bớt thù “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tranh thủ thời gian để chuẩn bị thế và lực cho kháng chiến lâu dài. Về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc: đối với chủ nghĩa Mac Lenin, xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng con 15

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net