Khái niệm nhà nước pháp quyền tiếp cận dưới góc độ triết học

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Khái niệm nhà nước pháp quyền tiếp cận dưới góc độ triết học

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRẦN THỊ DIỆU LINH KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 HÀ NỘI - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA TRIẾT HỌC TRẦN THỊ DIỆU LINH KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 60 22 03 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Nguyễn Thúy Vân HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ Triết học với đề tài “Khái niệm Nhà nước pháp quyền Tiếp cận dưới góc độ triết học” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân. Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tác giả Trần Thị Diệu Linh LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến các thầy, cô giáo của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nhất là các thầy cô trong Khoa Triết học đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Đặc biệt, tôi xin gửi đến PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng dẫn tận tình, chu đáo để tôi hoàn thành luận văn này. Do còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên luận văn chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của quý thầy, cô cùng toàn thể các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn, cũng như có thể rút kinh nghiệm cho những nghiên cứu tiếp theo. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả Trần Thị Diệu Linh DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐCS: Đảng cộng sản CNXH: Chủ nghĩa xã hội NNPQ XHCN: Nhà nước pháp quyền xã hôi chủ nghĩa XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1 B. NỘI DUNG............................................................................................... 8 CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG VÀ KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ...8 1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử ............................. 8 1.1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Nhà nước pháp quyền........................ 8 1.1.2 Khái niệm Nhà nước pháp quyền ...................................................... 30 1.2 Một số cách tiếp cận Nhà nước pháp quyền .................................... 37 1.2.1 Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ Sử học ............. 37 1.2.2 Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ Luật học .......... 40 1.2.3 Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ Chính trị học ... 43 CHƯƠNG 2: BẢN CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ................................ 47 2.1 Bản chất của Nhà nước pháp quyền................................................. 47 2.1.1 Về nội dung của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền ................... 48 2.1.2 Về yếu tố dân chủ trong nhà nước pháp quyền ................................. 50 2.1.3 Về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước......................................... 55 2.2 Một số vấn đề có tính quy luật trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ........................................................................................................ 59 2.2.1 Nền tảng kinh tế................................................................................ 60 2.2.2 Nền tảng xã hội ................................................................................ 65 2.2.3 Yếu tố dân chủ với tư cách là nền tảng nhận thức............................. 72 2.3 Vận dụng cách tiếp cận triết học khái niệm Nhà nước pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam ................ 77 2.3.1 Xây dựng về mặt lý luận mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ...................................................................................... 77 2.3.2 Dựa vào tính quy luật để thiết lập điều kiện tất yếu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ......................................... 88 KẾT LUẬN ................................................................................................. 94 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 96 A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ thời cổ đại, mầm mống tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây với tư cách là một trong những phương pháp giữ gìn trật tự xã hội, chống lại việc làm dụng quyền lực trong xã hội. Hiện nay, nhà nước pháp quyền được coi là một cách thức tổ chức quyền lực nhà nước tối ưu dựa trên nguyên tắc công bằng, nhân văn và được nhiều quốc gia lựa chọn làm mô hình hoạt động của mình. Mỗi quốc gia lại có những điều kiện cụ thể khác nhau nên việc xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền ở từng nước cũng không giống nhau. Ở mỗi quốc gia, chế độ pháp quyền đều có sự điều chỉnh nhất định cho phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Ngoài ra, sự phong phú trong cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền cũng đưa tới một hệ quả là xuất hiện nhiều học thuyết về Nhà nước pháp quyền. Nhiều nhà nghiên cứu đã cùng đưa ra một nhận xét như sau: “Pháp quyền là một thuật ngữ được sử dụng nhiều nhất và cũng là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau” [55,tr.28-40]. Tuy nhiên, các tư tưởng, học thuyết về pháp quyền đều có một điểm chung, đó chính là tinh thần thượng tôn pháp luật trong xã hội nhằm đảm bảo dân chủ, hạn chế sự tùy tiện, độc đoán và bảo vệ các quyền của con người. Sau nhiều thập kỷ dài chiến tranh và thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện chính sách đổi mới, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, mô hình Nhà nước pháp quyền đã được chính thức đề cập, cân nhắc và chọn lựa áp dụng tại Việt Nam từ năm 1991. Tuy nhiên, cũng như nhiều quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi khác, việc xây dựng chế độ pháp quyền tại Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn vừa triển khai vừa tổng kết và rút kinh nghiệm. Hệ thống lý luận về chế độ pháp quyền xã hội 1 chủ nghĩa còn chưa được quan tâm phát triển đúng mức, bên cạnh đó, một số nhà hoạch định chính sách còn nhìn nhận chế độ pháp quyền, đặc biệt là chế độ pháp quyền phương Tây với thái độ khá thận trọng. Thực tế đã chứng minh tầm quan trọng của lý luận đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Việc nhận thức một cách sâu sắc bản chất của các quá trình xã hội, các quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các quyết sách chính trị. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần phải được tiến hành trên cơ sở một khung lý luận vững chắc, có vai trò giá đỡ cho tư duy khi giải quyết các nhiệm vụ cụ thể liên quan. Một trong những nhiệm vụ then chốt đó là làm rõ khái niệm “Nhà nước pháp quyền”. Từ những lý do trên, đòi hỏi phải có một cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền dưới góc độ bản chất, quy luật nhằm xác định rõ những dấu hiệu đặc trưng của chúng. Trên cơ sở đó, tôi chọn đề tài “Khái niệm Nhà nước pháp quyền - tiếp cận dưới góc độ triết học” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Nhà nước pháp quyền là một nội dung không hề mới trong những nghiên cứu gần đây bởi tính cấp thiết của nó trong việc đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và thực tiễn đối với các lĩnh vực luật học, chính trị học… thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Ta có thể điểm qua một số các công trình ở các mảng nghiên cứu sau: Thứ nhất, nhóm các đề tài nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ và Bàn về khế ước xã hội của Rútxô do Hoàng Thanh Đạm dịch được coi là các tác phẩm kinh điển khi bàn về Nhà nước pháp quyền. Hai cuốn sách trên mang những 2 giá trị to lớn về mặt lịch sử, là cội nguồn để nghiên cứu những vấn đề của Nhà nước pháp quyền. Ở đó, các tác giả đã phân tích lịch sử ra đời, quá trình vận động và phát triển của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Đặc biệt, cả hai cuốn sách đều nêu bật lên được tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái… trên cơ sở quyền con người – yếu tố được coi là nền tảng của Nhà nước pháp quyền trong những nghiên cứu về sau này. Cuốn Chế độ dân chủ. Nhà nước và xã hội của N. M. Voskresenskaia, N. B. Davletshinna được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tri thức năm 2009 là một công trình sử dụng các kinh nghiệm quốc tế để xây dựng các nguyên tắc dân chủ, cuốn sách đã đề cập đến khía cạnh nhà nước và pháp quyền, chế độ liên bang và các hình thức tổ chức nhà nước ở Nga cũng như sự khác nhau giữa nước Nga ở quá khứ với nước Nga ở hiện tại, đồng thời đưa ra những nhận định về tương lai của quốc gia này. Công trình nghiên cứu của GS.TS Hoàng Chí Bảo: Giá trị bền vững và sức sống của Chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học đã vạch ra tư tưởng của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội. Trong đó, tác giả đã làm rõ khía cạnh quyền con người, quyền công dân – một trong những yếu tố căn bản để có thể xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Công trình nghiên cứu của Lê Minh Thông với nội dung Đổi mới hoàn thiện bộ má nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay đã triển khai được về tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền; nêu lên được quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc tổ chức bộ máy nhà nước trước và sau đổi mới. Ngoài ra, công trình còn làm rõ được quá trình đổi mới mô hình bộ máy nhà nước qua các bộ luật của các thời kỳ lịch sử, thực trạng bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa từ 1992 đến nay, từ đó nêu ra được phương hướng đổi mới mô hình tổ chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 3 Luận án của Tiến sĩ Trương Quốc Chính về Quan điểm của chủ nghĩa Mác, Ăng-ghen, Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa và việc vận dụng để xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân Việt Nam hiện nay đã nêu bật lên được quan niệm của Mác, Ăng-ghen, Lênin về nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa, nêu lên sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong tiến trình xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Đồng thời nêu lên được các nguyên tắc, giải pháp có tính định hướng trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay. Công trình “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân – Lý luận và thực tiễn” do Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn chủ biên (Nxb Chính trị Quốc gia, 2010) đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền; nêu lên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền; khái quát những đặc trưng cơ bản và chức năng của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đồng thời chỉ ra được các yếu tố quy định, chi phối cũng như phương hướng và các giải pháp chủ yếu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. Bài viết “Về một số nét đặc thù của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Phạm Văn Đức (Tạp chí Triết học số 9/2005) nêu lên được các đặc trưng cơ bản, mang nét riêng của nhà nước pháp quyền Việt Nam. Từ đó đi đến khẳng định nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là sự thống nhất giữa cái phổ biến và cái đặc thù thông qua sự so sánh những điểm giống và khác nhau về mô hình nhà nước pháp quyền của Việt Nam và trên thế giới nói chung. Thứ hai, nhóm các đề tài nghiên cứu về các cách tiếp cận Nhà nước pháp quyền Dưới góc độ lịch sử, cuốn Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam của Đinh Gia Trinh đã khảo cứu về lịch sử Nhà nước pháp quyền từ 4 thời kỳ dựng nước cho đến nay. Mỗi đặc điểm về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa … là những yếu tố tác động tích cực đến kiến trúc thượng tầng để từ đó nhìn nhận, đánh giá đâu là nguyên nhân căn bản để có biện pháp tác động phù hợp cho quá trình xây dựng đất nước. Tác giả Nguyễn Hữu Khiển với công trình nghiên cứu Phân tích triết học những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị đã đưa ra những luận giải về các nhóm lợi ích trong đời sống chính trị, Đảng chính trị, Nhà nước và quyền lực chính trị, văn hóa chính trị, vấn đề dân tộc, cục diện chính trị thế giới…. có thể trở thành điểm tựa cho việc nghiên cứu và hiểu sâu hơn về nền chính trị Việt Nam trong bức tranh chung của thế giới. Công trình nghiên cứu của Nguyễn Minh Đoan với đề tài Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã luận giải dưới góc độ luật học những vấn đề khá chi tiết về tính hệ thống của pháp luật Việt nam, về các yêu cầu đối với hoạt động xây dựng luật pháp, trách nhiệm của người xây dựng luật pháp; phát huy vai trò, trí tuệ của các nhà khoa học trong việc xây dựng luật, đồng thời nêu ra được tính thống nhất của việc phải xây dựng một hệ thống luật pháp sao cho phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay theo mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đáng kể nhất phải nhắc đến bài báo "Khái niệm nhà nước pháp quyền từ góc nhìn Triết học" của Tiến sĩ Trần Ngọc Liêu đăng trên Tạp chí Triết học số 11 năm 2009. Bài báo đã đưa ra định nghĩa khái niệm Nhà nước pháp quyền, nội dung và bản chất của Nhà nước pháp quyền, khẳng định Nhà nước pháp quyền là một trình độ phát triển tất yếu của nhà nước. Theo đó, Nhà nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa là hình thức chưa thể hiện hết nội dung còn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước đã thể hiện hết nội dung của Nhà nước pháp quyền, là Nhà nước pháp quyền theo nghĩa đầy đủ nhất. 5 Nhìn chung, các công trình nghiên đã bước đầu đưa ra các cách hiểu khác nhau về khái niệm Nhà nước pháp quyền và việc ứng dụng mô hình Nhà nước pháp quyền vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, tôi nhận thấy chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu và phân tích một cách có hệ thống khái niệm Nhà nước pháp quyền dưới góc độ Triết học nhằm chỉ rõ bản chất, những vấn đề có tính quy luật trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Đây là hướng nghiên cứu chính của luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Luận văn phân tích cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền dưới góc độ triết học, từ đó chỉ ra bản chất, quy luật và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền cũng như việc vận dụng nó trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. - Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra yêu cầu phải thực hiện những nhiệm vụ sau: + Khái quát lý luận tư tưởng về nhà nước pháp quyền và phân tích các cách tiếp cận khác nhau khái niệm Nhà nước pháp quyền. + Phân tích cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ triết học, chỉ ra bản chất, một số vấn đề có tính quy luật và những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, từ đó vận dụng vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận của luận văn là: Quan điểm Mác-xít về nhà nước, tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. - Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh, diễn dịch, quy nạp... 6 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Khái niệm Nhà nước pháp quyền từ cách tiếp cận triết học. - Phạm vi nghiên cứu: Xem xét khái niệm Nhà nước Pháp quyền từ cách tiếp cận triết học trên một số phương diện như: bản chất nhà nước pháp quyền, tính quy luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn trình bày một cách hệ thống tư tưởng về Nhà nước pháp quyền, các cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền, từ đó làm rõ cách tiếp cận triết học khái niệm Nhà nước pháp quyền. Đồng thời bước đầu chỉ ra việc vận dụng cách tiếp cận triết học khái niệm Nhà nước pháp quyền trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Ý nghĩa lý luận: Luận văn bổ sung về mặt lý luận cách hiểu về nhà nước pháp quyền dưới góc độ triết học. - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành Luật học, Chính trị học, Triết học… 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 5 tiết. 7 B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG VÀ KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN 1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử 1.1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Nhà nước pháp quyền Khái niệm Nhà nước pháp quyền đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại. Ngày nay, người ta vẫn tranh luận với nhau về việc: Phương Đông có tư tưởng về nhà nước pháp quyền hay không. Điều này phụ thuộc vào quan niệm thế nào là Nhà nước pháp quyền? Những nhà tư tưởng như thế nào thì được coi là có tư tưởng nhà nước pháp quyền? Trên thực tế, phải đến thế kỷ thứ XIX khái niệm nhà nước pháp quyền mới xuất hiện, nhà luật học người Đức là Molh Valker là một trong những người đầu tiên dùng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”. Những dấu hiệu của một nhà nước pháp quyền là: luật pháp thượng tôn trong xã hội, quyền lực thuộc về nhân dân và có sự phân chia hoặc phân công quyền lực. Đương nhiên, không thể ngay từ đầu đã có những quan điểm đầy đủ về những dấu hiệu này, bởi vậy những nhà tư tưởng nào có quan niệm về việc thượng tôn luật pháp, phân chia quyền lực, khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân thì đều được coi là có tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Thông thường khi nhắc đến Nhà nước pháp quyền, người ta thường nghĩ đến Nhà nước pháp quyền ở phương Tây, tuy nhiên mầm mống tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền ở phương Đông Xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN) có sự chuyển biến từ giai đoạn chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, khi đó tiếng nói của nhà Chu không còn giá trị, trật tự lễ nghĩa bị đảo lộn, đạo đức suy đồi. Xã hội vô cùng rối ren và loạn lạc, sự tranh giành quyền lực của các phe phái trong xã hội khiến cho Trung Hoa rơi vào cảnh chiến tranh liên miên trên toàn lãnh thổ, điều này đặt ra yêu cầu phải giải thể chế độ nhà nước kiểu 8 thị tộc của nhà Chu, thay vào đó là chế độ phong kiến nhằm giải quyết các vấn đề xã hội lúc bấy giờ. Khi đó, nhiều tư tưởng lớn ra đời – đặc biệt là tư tưởng về vấn đề “quốc trị” – đưa ra các cách thức quản lý xã hội nhằm thiết lập lại trật tự trong xã hội. Những tư tưởng về đường lối trị nước đó cũng đồng thời bao hàm nhiều yếu tố liên quan đến pháp quyền và có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền. Quan điểm “vô vi” của Đạo Lão Trang Mầm mống tư tưởng về quản lý nhà nước được bắt đầu từ quan niệm “Vô vi nhi trị” của Lão Tử. Ông cho rằng, xã hội trở lên loạn lạc là do con người phải phục tùng theo những lễ nghi, xã hội càng có tổ chức thì càng nguy hại. Trong quan niệm của Lão Tử, vạn vật đều có bản tính tự nhiên của mình, chúng tồn tại, vận động, biến hoá theo lẽ tự nhiên vốn có của nó, bởi vậy, ông chủ trương xây dựng một xã hội “huyền đồng” – một xã hội không có phân biệt đẳng cấp, không có dục vọng, không có pháp lệnh [Dẫn theo 18, tr.109]. Để xây dựng một xã hội như vậy Lão Tử chủ trương phải bỏ hết những gì trái với đạo tự nhiên vô vi, vượt quá bản tính, khả năng, nhu cầu tự nhiên cần thiết của con người. Muốn trị nước bằng vô vi, Lão Tử kêu gọi đưa xã hội và cuộc sống con người trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên thuỷ, chất phác, không ham muốn, dục vọng, không thể chế, pháp luật, không ràng buộc bởi truyền thống đạo đức, không tri thức văn hoá, kĩ thuật. Theo bản tính tự nhiên,mọi người tự làm những việc mà mỗi con người cần phải làm một cách tự nhiên. Không chỉ vậy, Lão Tử còn chủ trương đưa đức tính con người trở lại với thời kỳ trẻ thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông muốn con người thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên mà sống hòa hợp với tự nhiên, không tự mãn, không tự phụ,không xao động, không phô trương, không thái quá hay bất cập.Do đó, Lão Tử phản đối những hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội và mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thuỷ, đồng thời, ông chủ trương bất bạo động, phản đối việc gây chiến tranh bạo lực vì 9 ông cho đó là sự tàn bạo, là tai hoạ của đời sống con người. Để làm được những điều trên, Lão Tử cho rằng những nhà cầm quyền phải lo cho dân no ấm, dùng sự thanh liêm của mình để khiến dân nể phục, từ đó nhân dân sẽ dần dần trở về với trạng thái tự nhiên, chất phác mà không bị những khuôn phép chính trị gò bó. Nhà nước pháp quyền và triết lý vô vi của Lão Tử gặp nhau ở điểm giới hạn hợp lý sự can thiệp của công quyền vào đời sống của nhân dân. Lão Tử chủ trương một xã hội lý tưởng trong đó nhà cầm quyền cần thực hiện “vô vi nhi trị” (làm mà như không làm gì mà lại không gì là không làm) tức là điều hành mọi việc theo lẽ tự nhiên của con người, quản lý nhân mà để nhân dân không thấy bị đè nén, những thành quả nhân dân được hưởng thử do nhà nước đem lại nhưng để cho nhân dân tự thấy đó là thành quả của chính mình. Triết lý của Đạo Lão Trang cho rằng cần để cho xã hội phát triển một cách tự nhiên, giảm thiểu các quy định của pháp luật, một khi đã đặt ra pháp luật thì pháp luật phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người. Lão Trang cũng đặt ra vấn đề tự do là để mọi thứ thuận theo tự nhiên. Những quan niệm này gần với quan niệm về pháp luật tự nhiên của học thuyết Nhà nước pháp quyền ở phương Tây cận đại [Dẫn theo 39,tr.239]. Trang Tử coi tự do là bản tính tự nhiên của con người, còn học thuyết pháp quyền tự nhiên cho rằng tự do là quyền tự nhiên của con người được luật hóa. Trang Tử phản đối pháp luật vì nó hạn chế sự tự do của con người, điều này cũng có phần đúng nhưng việc ông phủ nhận hoàn toàn pháp luật cho thấy ông không chỉ ra được vai trò bảo vệ tự do của pháp luật. Học thuyết pháp quyền tự nhiên thừa nhận việc đặt ra pháp luật là hạn chế tự do nhưng pháp luật là cần thiết cho xã hội. Nếu tất cả mọi người đều tự do tuyệt đối thì tự do của người này sẽ thủ tiêu tự do của người khác và hệ quả tất yếu là sẽ có cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả như cách nói của Hobbes [39,tr.239]. Không cực đoan như Trang Tử, Lão Tử cho rằng phải giảm thiểu các quy định của pháp luật và khi đặt ra pháp luật cần phải tôn trọng tính tự nhiên của con người. Pháp luật phải ghi nhận 10 những quy luật sinh hoạt phổ biến của xã hội loài người, không đi ngược lại chúng và cũng không ôm cả xã hội vào lòng mình bởi xã hội còn được điều chỉnh bởi nhiều yếu tố khác nhau như lợi ích, các định chế đạo đức, tập quán...Lão Tử cho rằng muốn quản lý hiệu quả phải hiểu được những bản tính tự nhiên của con người mà xây dựng pháp luật. Pháp luật không tạo ra bản tính tự nhiên của con người mà chỉ ghi nhận và tạo lập cơ chế đảm bảo phát triển bản tính tự nhiên đó. Pháp luật đặt ra theo ý chí chủ quan của nhà nước thì dễ bị xã hội từ chối [Dẫn theo 39,tr.242]. Chính vì vậy, theo Lão Tử, nhà nước không nên đặt ra nhiều quy định cấm mà nên định ra những khung rộng rãi cho người dân có nhiều cơ hội lựa chọn cách hành xử, không nên giới hạn hành vi của người dân bằng những quy định quá chi tiết. Lão Tử nói: ”Sắc lệnh càng tỉ mì thì dân càng lo âu, càng giới hạn hành vi của người dân thì dân càng dễ nổi loạn, chống đối. Sự chi tiết hóa các đạo luật bằng một khối lượng lớn các văn bản pháp luật sẽ dễ xâm phạm quyền con người. Nhiều khi luật rất thông thoáng nhưng các văn bản pháp quy tạo ra những rào cản. Một thế giới ngập tràn nghị định và thông tư không nên có trong một nhà nước pháp quyền. Trong một nhà nước pháp quyền người dân phải được sống dưới các đạo luật do chính dân biểu của mình biểu quyết” [Dẫn theo 39,tr.244]. Như vậy, quan niệm của Lão Tử nói riêng và Đạo gia nói chung mang đậm tính nhân văn ở chỗ không gò buộc con người vào bất cứ một khuôn phép nào, theo đó luật pháp không phải là phương án triệt để để loại trừ những tệ nạn trong xã hội và nếu muốn hướng thiện thì phải dùng tư cách thánh nhân để cảm hóa kẻ xấu, để cho vạn vật phát triển tự nhiên. Sự tiến bộ trong quan niệm của Lão Tử thể hiện ở chỗ thừa nhận sự tồn tại tất yếu của bản tính tự nhiên của con người, đề đảm bảo và duy trì được bản tính tự nhiên ấy thì những nhà cầm quyền phải thuận theo lẽ tự nhiên để cai trị dân chúng. Tư tưởng này có vai trò quan trọng đối với mô hình nhà nước pháp quyền hiện đại vì việc nhận thức và bảo vệ quyền tự nhiên của con người là một trong 11 những nội dung quan trong của luật pháp – đây là yếu tố cơ bản của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, điểm hạn chế trong quan niệm của Lão Tử là đưa xã hội trở về xã hội nguyên thủy, chất phác tự nhiên, con người sống hòa mình với thiên nhiên theo bản năng vốn có của mình nảy sinh mâu thuẫn giữa quyền lợi của mỗi cá nhân với quyền lợi của xã hội – gây ra sự hỗn loạn trong xã hội. Mặt khác, quan niệm của Lão Tử không được xét đến trong bối cảnh sự vận động và phát triển của kinh tế và các quan hệ xã hội nên cũng chỉ bộc lộ được vai trò trấn an xã hội trong trạng thái tĩnh, hay nói cách khác là chỉ có tác dụng trong xã hội giản đơn, không có sự thay đổi về các yếu tố kinh tế hay xã hội. Quan niệm Đức trị của Khổng Tử Trong khi Lão Tử chủ trương “vô vi nhi trị” – thuận theo lẽ tự nhiên để quản lý xã hội,Khổng Tử lại đưa ra quan niệm dùng đạo đức để quản lý xã hội. Ông chủ trương phục lễ của nhà Chu để khôi phục thiên hạ, nêu “chính danh” để khôi phục chế độ thân phong, từ đó, Khổng Tử dùng đức trị - bản thân người thống trị lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ không chống lại những người thống trị nữa.Trong xã hội đó, Vua vâng mệnh trời để trị dân những mệnh trời phải phù hợp với lòng dân và người cầm quyền phải dựa vào dân. Chủ trương đức trị đòi hỏi kẻ thống trị phải tu dưỡng, dùng “cung, khoan, tín, mẫn, huệ” để cảm hóa. Từ đó, ông đưa ra chính sách huệ dân, đòi hỏi người cầm quyền phải tiết dụng, phải yêu người, sử dụng sức dân đúng lúc, chú ý làm cho dân đông đúc và giàu mạnh. Ông chủ trương sử dụng lễ nhạc để giáo hóa người dân, cách thức quản lý xã hội này sử dụng những quy phạm đạo đức thay thế cho những quy phạm pháp luật. Ông lập luận rằng “Hướng dẫn người ta bằng chính lệnh, chỉnh đốn người ra bằng hình luật thì người ta bất đắc dĩ làm theo nhưng không có liêm sỉ. Ngược lại, hướng dẫn người ta bằng đức, chỉnh đốn người ta bằng lễ thì người ta có lòng liêm sỉ và quy phục” [Luận ngữ, Thiên vi chính]. Với lập 12 luận này, Khổng Tử dường như xem nhẹ và không thấy được vai trò của luật pháp. Tư tưởng trị nước này chỉ phát huy được tác dụng khi quản lý xã hội trong sự bình ổn mà không phải chịu chế tài nhằm duy trì sự bình ổn xã hội trong một giai đoạn nhất định. Hạn chế của Khổng Tử thể hiện ở chỗ không đảm bảo được sự ổn định xã hội trong thời gian dài và yêu cầu người cầm quyền phải là người có đạo đức mới quản lý được nhà nước và khi toàn bộ phương thức cai trị phụ thuộc vào đạo đức của người cầm quyền sẽ khó tạo ra sự phát triển xã hội và tính rủi ro cao. Tuy nhiên, tư tưởng này lại mang đến những hiệu quả nhất định đối với xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ cũng như giai đoạn đầu của chế độ phong kiến sơ kỳ. Nó đưa ra yêu cầu chuẩn mực của đội ngũ những người cầm quyền – thể hiện khía cạnh đạo đức không thể thiếu khi xây dựng nhà nước pháp quyền mà ở đó việc điều hành nhà nước phải dựa trên sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật mà cụ thể hơn là pháp luật phải được xây dựng trên nền tảng đạo đức. Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Xét về phương diện lịch sử, người khởi xướng quan niệm sử dụng luật pháp để quản lý xã hội ở Trung Hoa là Thân Bất Hại, sau được bổ sung và phát triển bởi Quản Trọng, Tử Sản, Thương Uởng, Hàn Phi – Sau này, người ta gọi tư tưởng Pháp trị và trường phái tư tưởng này là Pháp gia. Đầu tiên, ta cần phân biệt hai khái niệm “pháp quyền” và “pháp trị”: Trong pháp quyền, luật pháp bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Luật pháp chính là quyền tự nhiên của con người được luật hóa . Trong pháp trị, luật pháp bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Các nhà tư tưởng trong cùng trường phái Pháp gia lại không thống nhất với nhau, nếu như Thận Đáo đề cao “Thế” – tầm quan trọng của địa vị, uy tín, trình độ của những người nắm pháp luật mà cụ thể là Vua và hệ thống quan lại… thì Thân Bất Hại lại đứng đầu nhóm duy “Pháp” - cho rằng, pháp luật là yếu tố quan trọng nhất, bởi lẽ, nếu pháp luật đầy đủ, nghiêm minh thì nước mạnh, nếu pháp luật thiếu, yếu, lỏng lẻo thì nước yếu. Trong khi đó, 13 Thương Ưởng khẳng định rằng, “Thuật” (phương pháp, sách lược) là nhân tố có tầm quan trọng trong đường lối trị nước chẳng hạn như thuật bổ nhiệm quan lại dựa trên chính danh, trên nhu cầu thực tế, thuật giám sát và thưởng phạt dựa trên nguyên tắc “theo danh mà trách thực”, “theo việc mà trách công” quan lại phải chịu trách nhiệm và bổn phận về việc mình làm, không đổ lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh, không trốn tránh trách nhiệm. Nhìn chung, các nhà tư tưởng kể trên đều lấy pháp luật làm công cụ cơ bản để cai trị đất nước và đề ra nguyên tắc “Pháp bất ly thân”, tức là mọi người đều phải tuân thủ theo pháp luật. Trong đó, các ông đều chủ trương tôn trọng vua vì vua là người đặt ra pháp luật, nhưng vua phải yêu thương dân chúng thì dân chúng mới phục tùng vua. Pháp luật mà vua ban hành phải phù hợp với lợi ích của nhân dân, không chỉ vậy mà còn phải mang tính chắc chắn. Mọi người đều phải tuân thủ pháp luật, như vậy, nếu pháp luật nghiêm minh thì người cầm quyền có thể không cần tài đức mà vẫn trị được nước. Tuy nhiên, người đưa ra học thuyết tương đối hoàn chỉnh về Pháp trị và áp dụng nó đem lại kết quả hữu hiệu nhất trong việc thống nhất Trung Hoa dưới thời Tần Thủy Hoàng là Hàn Phi Tử. Hàn Phi sống trong thời kỳ Chiến Quốc, nếu như nói rằng thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ đầy biến động trong lịch sử Trung Quốc thì thời kỳ Chiến Quốc là giai đoạn biến động nhất. Tư tưởng pháp trị đã được Hàn Phi phát triển lên đỉnh cao dựa trên sự kế thừa, tổng hợp và phát triển học thuyết của những bậc Pháp gia tiền bối để tạo nên một học thuyết hoàn chỉnh về đường lối pháp trị. Nếu như trước Hàn Phi, như đã nói, Pháp gia hình thành lên ba phái cơ bản: phái trọng “pháp” của Thương Ưởng, phái trọng “thế” của Thận Đáo, phái trọng “thuật” của Thân Bất Hại, thì Hàn Phi đề cao cả ba yếu tố này, và kết hợp chúng một cách nhuần nhuyễn trong học thuyết của mình. Trong đường lối pháp trị của ông, “pháp”, “thế”, “thuật” là những công cụ của pháp trị, ba yếu đó tố thống nhất, không thể tách rời, và không thể thiếu bất cứ yếu tố nào, yếu tố nọ gắn bó và 14

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net