Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn võ thị xuân hà

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn võ thị xuân hà

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 LƯU THỊ VÂN PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ Chuyên ngành : Lí luận văn học Mã số : 60 22 01 20 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TÔN THẢO MIÊN HÀ NỘI, 2015 Lời cảm ơn Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới sự hướng dẫn của cô giáo PGS.TS Tôn Thảo Miên. Sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình, nghiêm túc của cô trong suốt quá trình thực hiện luận văn này đã giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều trong cách tiếp cận một vấn đề mới. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn, lòng kính trọng sâu sắc nhất đối với cô. Tôi xin trân trọng cảm ơn ban giám hiệu trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, phòng Sau đại học, các thầy cô trong nhà trường đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập. Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã giúp đỡ, dộng viên và tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa học Thạc sĩ cũng như hoàn thành luận văn này. Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2015 Tác giả Lưu Thị Vân Lời cam đoan Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Tôn Thảo Miên. Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn tôi đã kế thừa những thành quả khoa học của các nhà khoa học và đồng nghiệp với sự trân trọng và biết ơn. Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày 10 tháng 07 năm 2015 Tác giả Lưu Thị Vân Mục lục MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1 1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………….1 2. Lịch sử vấn đề……………………………………………………………..3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………….7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu………………………………………..8 5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………8 6. Cấu trúc luận văn………………………………………………………....9 7. Đóng góp của luận văn……………………………………………………9 NỘI DUNG………………………………………………………………….10 CHƯƠNG 1: KHÁI LƯỢC LÍ THUYẾT PHONG CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ………10 1.1. Khái quát về phong cách………………………………………………10 1.1.1. Một số quan niệm về phong cách………………………………………...10 1.1.2. Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách………………………..15 1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách văn xuôi Võ Thị Xuân Hà…………………………………………………………….16 1.2.1. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn nói chung………………………………………………………………………....…16 1.2.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách văn xuôi Võ Thị Xuân Hà…………………………………………………………………….18 CHƯƠNG 2: NHÂN VẬT VÀ CỐT TRUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ………………………………………………………...33 2.1. Nhân vật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà……………………….33 2.1.1. Khái niệm nhân vật………………………………………………......33 2.1.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà………………35 2.1.2.1. Nhân vật giàu lòng nhân hậu, vị tha…………………………………....35 2.1.2.2. Nhân vật cô đơn, bất hạnh nhưng đầy nghị lực và khao khát kiếm tìm tình yêu đã mất, hạnh phúc đời thường…………………………………….…….40 2.1.2.3. Nhân vật tự thú, sám hối……………………………………………….…45 2.1.2.4. Nhân vật bản năng………………………………………………………...48 2.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà……………………..53 2.2.1. Khái niệm cốt truyện……………………………………………………..…53 2.2.2. Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà…………….54 2.2.2.1. Cốt truyện tâm lý…………………………………………………....54 2.2.2.2. Cốt truyện với kết cấu đảo lộn thời gian tuyến tính………………...56 2.2.2.3. Cốt truyện với kết cấu mở…………………………………………...59 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ…………………………………..63 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà…..63 3.1.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả hành động……………………….……63 3.1.2. Xây dựng nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại…………………………..65 3.1.3. Xây dựng nhân vật qua miêu tả độc thoại nội tâm……………….....69 3.2. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà…….73 3.2.1. Xây dựng cốt truyện qua điểm nhìn trần thuật……………………..….73 3.2.2. Xây dựng cốt truyện qua không gian nghệ thuật……………………79 3.2.3. Xây dựng cốt truyện qua thời gian nghệ thuật……………………...85 3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật…………………………………………………..88 3.3.1. Ngôn ngữ trong trẻo, giàu chất thơ………………………………….89 3.3.2. Ngôn ngữ đời thường mang tính bình dân…………………………91 3.3.3. Ngôn ngữ có tính thế tục, giễu nhại, u mua……………………..…93 3.4. Giọng điệu nghệ thuật…………………………………………………95 3.4.1. Giọng điệu trữ tình trong trẻo, tươi vui……………………………...96 3.4.2. Giọng điệu xót xa, ngậm ngùi, tiếc nuối…………….……………....97 3.4.3. Giọng điệu mỉa mai, giễu nhại……………………………………..100 KẾT LUẬN………………………………………………………………..104 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..108 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Phong cách là một trong những vấn đề đã được bàn luận từ thời cổ đại bởi rất nhiều các triết gia, nhà lý luận, nhà nghiên cứu phê bình nổi tiếng. Khi đề cập đến văn chương, người ta thường dùng các từ như: lối văn, giọng văn, đặc tính, tinh thần, sở trường, sở thích... để chỉ đặc tính riêng của tác giả, tác phẩm. Mấy chục năm gần đây, do ảnh hưởng từ lý luận phương Tây và Liên Xô cũ, chúng ta mới có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về phong cách. Nhìn một cách tổng thể phong cách nghệ thuật là một vấn đề có tính lý luận và thực tiễn quan trọng của ngành Ngữ văn nói chung và Lý luận văn học nói riêng. Việc nghiên cứu phong cách nghệ thuật sẽ giúp người nghiên cứu có được một hệ thống những luận điểm quan trọng để đánh giá giá trị của tác phẩm, khám phá, tìm hiểu những nét độc đáo trong sáng tác của nhà văn trong một trào lưu hay một nền văn học. 1.2. Văn học luôn là tấm gương soi của thời đại. Văn học Việt Nam từ sau năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước chủ trương đổi mới và mở cửa đã tạo điều kiện cho các ngành nghệ thuật cũng như văn học phát triển mạnh mẽ. Quan sát sự vận động của văn học Việt Nam sau 1986, chúng ta dễ dàng nhận thấy lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật có sự biến đổi thật sự sâu sắc. Những hiện tượng mới lạ gây dư luận ồn ào và kéo dài, những tranh cãi gay gắt, những diễn biến phức tạp và bất ngờ của quá trình tiếp nhận văn học... chủ yếu diễn ra ở văn xuôi. Góp phần không nhỏ vào sự thành công này phải kể đến đội ngũ ngày càng đông đảo các nhà văn nữ, tiêu biểu như Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Trần Thùy Mai, Thùy Dương, Võ Thị Hảo, Đỗ Hoàng Diệu, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Xuân Hà, Lý Lan... Chính họ là những người đã làm nên những thành công của văn học Việt Nam 2 đương đại với những sáng tạo không ngừng từ đề tài, chủ đề đến cách thức thể hiện. 1.3. Võ Thị Xuân Hà là một trong số những cây bút nữ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam đương đại. Là một phụ nữ có niềm đam mê với sự sống và sự viết, Võ Thị Xuân Hà đã vượt qua mọi khó khăn thăng trầm để đi tìm ý nghĩa đích thực trong tình yêu cũng như trong văn chương. Chị đã trải qua nhiều ngã rẽ, nhiều ngành nghề để đến với văn chương. Dù mới chỉ xuất hiện trên văn đàn vào cuối những năm tám mươi của thế kỉ trước, nhưng với niềm đam mê, nhiệt huyết văn chương cháy bỏng và một năng khiếu thiên phú, Võ Thị Xuân Hà đã trở thành một cây bút nữ sung sức với hai cuốn tiểu thuyết là Tường thành và Trong nước giá lạnh, một tập truyện dài: Chuyện ở rừng sồi (NXB Trẻ - 1998, NXB Kim Đồng – 1999); đặc biệt phải kể đến hàng chục tập truyện ngắn của chị như: Vĩnh biệt giấc mơ ngọt ngào (NXB Văn học – 1992), Bầy hươu nhảy múa (NXB Văn học 1994); Kẻ đối đầu (NXB Hội nhà văn – 1998); Truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà (NXB Phụ nữ - 2002); Thế giới tối đen (NXB Phụ nữ - 2008); Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí (NXB Hội nhà văn – 2009)... Với thái độ làm việc nghiêm túc, Võ Thị Xuân Hà xứng đáng được nhận những giải thưởng xuất sắc. Võ Thị Xuân Hà chủ yếu sáng tác truyện ngắn và đã gặt hái được nhiều thành công ở thể loại này. Ngày 29.04.2009, trong chương trình Mùa nước Pháp tổ chức tại trung tâm văn hóa Pháp (24 Tràng Tiền, Hà Nội), truyện ngắn Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà đã vinh dự được chọn lọc và trình diễn. Đây là một buổi trình diễn truyện ngắn chính thức đầu tiên của một tác phẩm đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức... Gần đây, chúng ta lại thấy Võ Thị Xuân Hà xuất hiện với vai trò là nhân vật chính trong chương trình “Đường đến thành công”, chương trình nhằm tôn vinh 3 những gương mặt hoạt động xuất sắc trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật. Xuất hiện trong chương trình, Ma Văn Kháng đã nhận xét: “Văn chương Võ Thị Xuân Hà luôn ánh lên giá trị của cái Đẹp trên hai phương diện. Thứ nhất là chủ đề nhân sinh, Xuân Hà luôn ca ngợi, khắc khoải, day dứt, tìm kiếm, nâng niu những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Thứ hai là khả năng ngôn ngữ, câu cú, chữ nghĩa, biểu đạt cảm xúc phong phú, hài hòa, vừa cổ điển, mực thước vừa cách tân mới mẻ như chính cốt cách con người Xuân Hà”. Ở Xuân Hà vừa có cái đằm thắm, tinh tế của người phụ nữ gốc Huế, cái nhân hậu của một người xuất thân giáo viên, vừa có cái sắc sảo của một nhà báo chuyên nghiệp, tầm bao quát, khả năng tổ chức nghệ thuật của một nhà biên kịch điện ảnh, cộng với tình yêu nghề nghiệp, tất cả đã tạo nên những trang viết ấn tượng tạo sự hấp dẫn cho truyện của Võ Thị Xuân Hà. Độc đáo trong văn chương chị không nằm ở những phá phách, nổi loạn hay cách tân mà ở sự giữ gìn và phát huy hài hòa hai mạch nguồn văn hóa, văn học truyền thống và hiện đại. Tất cả đã tạo nên một phong cách Võ Thị Xuân Hà riêng khó lẫn trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam. Vì những lí do trên, người viết chọn đề tài Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà với mục đích tìm hiểu những nét đặc sắc trong nghệ thuật viết đã tạo nên phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà, khẳng định những đóng góp của chị đối với truyện ngắn nói riêng và với nền văn học Việt Nam đương đại nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Nhà văn Võ Thị Xuân Hà chính thức bước vào nghề với tập truyện ngắn Vĩnh biệt giấc mơ ngọt ngào (NXB Văn học – 1992). Cũng từ đây, dấu ấn sáng tác của chị trong lòng độc giả ngày càng đậm nét. Có hàng loạt các bài nghiên cứu, nhận xét, đánh giá về tác phẩm của chị. Theo Văn Giá: “Võ Thị Xuân Hà là một cây bút trưởng thành thời hậu chiến, nghĩa là sau năm 1975. 4 Chị có một nhóm các cây bút văn xuôi nữ cùng trang lứa: Y Ban, Thùy Dương, Bích Ngân; trước một chút là Võ Thị Hảo, sau một chút là Nguyễn Thị Thu Huệ. Mỗi người mỗi vẻ và đều đáng nể. Thí dụ, nếu văn của Hà xao xuyến trữ tình chập chờn hư thực thì văn Y Ban lại áp sát vào thực tại đời sống với những biểu đạt can đảm, sắc sảo pha lẫn u – mua. Nhìn rộng ra còn có thể kể đến một số nam nhà văn thuộc loại cùng trà, tất cả đã làm nên một vùng văn xuôi vạm vỡ và đa giọng điệu. Trong đội hình các cây bút văn xuôi đó, Võ Thị Xuân Hà đã xác lập cho mình một nhan sắc, một phong thái văn chương”. Cảm nhận về sáng tác của Võ Thị Xuân Hà, Hàn Thủy Giang trong bài Võ Thị Xuân Hà – Người sống trên đất lặng lẽ (Vietbao.com, 10/02/2003) đã cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng hấp dẫn độc giả trong tác phẩm của chị chính là dấu ấn chủ quan của tác giả trong sáng tác: “Nghĩ về chị tôi cứ nghĩ đến một người sống trên đất mà như đi trên dây, tất nhiên không phải đang làm xiếc. Nếu đứng lại nhìn ngó xung quanh sẽ ngã lộn cổ. Bởi vậy chị cứ đi, đi một cách đầy chủ quan, vì nếu chị khách quan - đó sẽ là một cú ngã. Và có lẽ tôi yêu mến chị, yêu văn chị chính bởi vì nét chủ quan ấy”. Cũng nhận xét về phong cách sáng tác của Xuân Hà, nhưng đi sâu ở khía cạnh nội dung, Hàn Thủy Giang khẳng định: “Có một điều, tôi nghĩ, đã giúp văn cuả chị được người ta chú ý. Đó là chị đã tìm được cách thể hiện tình nhân ái qua những chi tiết nhỏ, tinh tế, những chi tiết đôi khi nhiều người không chú ý tới” [7]. Trong bài Võ Thị Xuân Hà: Viết để đỡ đau đớn hơn khi nhìn thực tế (Vietbao.com, tháng 8, 2003), tác giả Hiền Hòa đã nhấn mạnh trong truyện ngắn của Xuân Hà có một sự đa dạng với những chiều đối lập: “Những trang viết của chị cũng lóng lánh y hệt một thứ nhà gương mà người ta có thể nhận diện đủ loại gương mặt mình, để rồi lúc thì bật cười, lúc lại sợ hãi”. Hiền Hòa còn khẳng định: 5 “Thế giới nhân vật của chị chủ yếu là những người đàn bà (…). Những người đàn bà của Võ Thị Xuân Hà dù ngoan ngoãn hay vụng trộm, phá phách cũng đều có một đặc điểm giống nhau: mặc kệ cuộc sống nghèo khó hay sung túc, họ luôn bị trộn lẫn giữa thực tại và mộng tưởng. Họ xáo trộn giữa cái tốt và cái xấu, đầy lòng vị tha nhưng cũng ích kỉ, rất tự tin nhưng cũng dễ bị cám dỗ. Bởi họ bị ám ảnh bởi một quá khứ mông lung, một tương lai đầy bất trắc” [25]. Cũng viết về nhân vật phụ nữ trong sáng tác của Võ Thị Xuân Hà, Hà Phạm Phú trong bài Ngôi nhà gương của Võ Thị Xuân Hà cho rằng: “Những người đàn bà của Võ Thị Xuân Hà không có một làng quê chung rõ rệt, kẻ thì ở miền biển người thì ở miền rừng, người thì trong thành phố... Những người đàn bà ấy cười nói, đi đứng, yêu đương vụng trộm, sung sướng và căm giận không hiểu sao lại làm cho lòng ta xáo động, đánh thức nỗi buồn chìm sâu và ngủ yên trong đáy tim mình từ bao năm, êm ái lan tỏa, thấm dần vào từng huyết quản”. Và “Thế giới đàn bà của Hà là một thế giới riêng, không lẫn vào ai. Những người đàn bà của chị hình như cũng là sự xáo trộn giữa cái tốt và cái xấu... sống yên phận nhưng lại không chịu yên với số phận đã an bài. Một người phụ nữ là một bí ẩn” [41]. Nhận xét về tập truyện ngắn Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí, tác giả Thủy Bình nhận thấy ở tập truyện ngắn này “những mảnh ghép đa chiều về con người và những khía cạnh bí ẩn của đời sống tâm linh” và còn thấy “16 truyện ngắn in trong tập truyện này là dòng chảy cô đơn trong từng câu chữ, mang nặng hơi thở tình yêu và những khát khao cháy bỏng thiếu phụ. Như đất khát khao sinh sôi nảy nở dâng hiến mỡ màu cho cây, người đàn bà dâng hiến tình yêu. Tình yêu tìm đến người đàn bà như hạt giống tìm về với đất”. Thủy Bình khi giới thiệu về tập truyện ngắn này còn cho rằng: “Nếu so với những Tường thành, Trong nước giá lạnh thì Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí dường như ít đời thường, lạ hơn, ma quái hơn. Ngay cả 6 trong những mẩu chuyện có vẻ bề ngoài rất bình thường, rất đời sống, người ta vẫn cảm thấy đâu đấy có ý vị liêu trai, kì ảo. Nhiều truyện phảng phất hình ảnh nhà chùa, sư thầy và triết lí Phật giáo như Ngàn xanh và gió, Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí... Có những truyện nhưng nhức trước những mảnh đời thương tâm như Ngọa sinh, Mây giăng... Có truyện đi sâu vào đời sống tâm linh nhưng cũng có những mẩu ghi chép lại sự nhạt nhẽo của đời sống tinh thần con người trong thời đại thống trị của vật chất như Xin lỗi em, Mùa xuân nghiêng” (http://www.ebookmore.com). Nhà phê bình sân khấu Trần Minh Phượng lại ấn tượng với “chất Huế” trong truyện của Xuân Hà. Theo Trần Minh Phượng, đặc điểm này được thể hiện rõ rệt qua truyện Chuyện của con gái người hát rong. Trần Minh Phượng cho rằng: “Khi đọc ba truyện ngắn này, người đọc nhận ra những tinh tế rất Huế trong văn chị. Huế từ nếp nhà, đường phố, từ những cơn mưa dầm, từ lối nói... Nhưng điển hình nhất là chị đã phát hiện ra chất nghệ sĩ dân gian trong hình ảnh cha và con người hát rong. Câu chuyện nhân tình thế thái đằm sâu, dữ dội, khiến người đọc như thực sự đắm mình trong không gian đa chiều mà chị đã lột tả qua những hình ảnh nhân vật và số phận bi thương của họ”. Nhà văn Võ Thị Xuân Hà đã từng khẳng định: “Trẻ thì phải có tính khai phá, thử nghiệm” (Thể thao và văn hóa, 16.10.2009). Võ Thị Xuân Hà luôn hừng hực với nhiệt huyết sáng tác không ngừng nghỉ. Khi đề cập đến truyện Cà phê yêu dấu của chị, Hạnh Đỗ có nói: “Truyện ngắn này cũng mở đầu cho một giai đoạn sáng tác mới của Võ Thị Xuân Hà: lời văn dễ thương, những câu chuyện nhẹ nhõm, đời thường và lâng lâng những mối tình tưởng chỉ chạm nhẹ tay là vỡ. Tuy nhiên cũng là một giai đoạn sống và sáng tác kiệt lực với những tác phẩm đa chiều về lối viết và có ma lực hấp dẫn người đọc, đôi truyện đến độ kì ảo, hấp dẫn đến rùng mình” [5]. Trên cơ sở tổng hợp những truyện ngắn của Võ Thị Xuân Hà, tác giả 7 Thiên Sơn chỉ ra: “Sáng tác của Võ Thị Xuân Hà theo ba hướng chính: đi vào những bí ẩn nội tâm, với bút pháp phân tích tâm lí sắc sảo; đi vào hiện thực xã hội với những vấn đề bức xúc và những phận người bất hạnh; đi vào tâm linh với những huyền bí của tiền kiếp, của luân hồi, những dự cảm về nhân quả kiếp người. Và càng ngày chị càng tiếp tục mở rộng đề tài, không ngại thể nghiệm những hình thức mới, dấn sâu vào tâm linh và tiềm thức”. Bên cạnh những bài viết mang tính chất phê bình hoặc những bài tổng hợp ngắn gọn từ một số tác phẩm, nghiên cứu về Võ Thị Xuân Hà hiện nay còn có thể kể đến các luận văn Thạc sĩ như: “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà” của Bùi Tuấn Ninh (2011), “Đặc trưng truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà” và “Nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà” của trường Đại học Vinh. Những chuyên luận này đã khai thác một số phương diện nội dung và nghệ thuật, đã bước đầu phác họa được đặc điểm truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Như vậy, ở chuyên ngành Lý luận văn học, nghiên cứu chuyên sâu về mảng truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà chưa nhiều. Đặc biệt, phương diện phong cách nghệ thuật truyện ngắn hầu như chưa được chú trọng một cách thấu đáo. Dựa trên thành công nhiều mặt của các đề tài khoa học đi trước, chúng tôi hi vọng “Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà” sẽ góp phần đánh giá và chỉ ra nét đặc sắc, riêng biệt trong những sáng tác độc đáo của Võ Thị Xuân Hà ở thể loại truyện ngắn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của chúng tôi là hệ thống lại và đưa ra quan niệm về phong cách nghệ thuật. Dựa trên cơ sở đó nhận diện phong cách nghệ thuật Võ Thị Xuân Hà ở thể loại truyện ngắn, tiến đến khẳng định sự thành công của chị ở thể loại này. Nhiệm vụ: Tìm hiểu về lí thuyết phong cách nghệ thuật, sự thể hiện của 8 phong cách nghệ thuật nhằm vận dụng nghiên cứu phong cách truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Khảo sát truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà trong phạm vi tư liệu giới hạn, làm rõ một số phương diện chính của phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính là Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà với các vấn đề cơ bản: Khái niệm phong cách nghệ thuật và các nhân tố tác động đến sự hình thành phong cách nhà văn Võ Thị Xuân Hà, nhân vật và cốt truyện và một số phương thức biểu hiện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Tuy nhiên trong khuôn khổ của chuyên luận, chúng tôi xin tập trung vào một số tập truyện sau: Tập truyện ngắn Kẻ đối đầu (NXB Hội Nhà văn – 1998). Tập Truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà (NXB Phụ nữ - 2002). Tập truyện ngắn Chuyện của con gái người hát rong (NXB Hội Nhà văn -2004). Tập truyện ngắn Thế giới tối đen (NXB Hội Nhà văn – 2011). Tập truyện ngắn Cái vạc vàng có đòn khiêng bằng kim khí (NXB Hội Nhà văn – 2011). Tập truyện ngắn Vàng son thạch thủy khí (NXB Hội Nhà văn – 2012). 5. Phương pháp nghiên cứu Hướng tới các mục đích, nhiệm vụ trên, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp nghiên cứu tác giả. Phương pháp phân tích, tổng hợp những nét chung và riêng trong truyện 9 ngắn để thiết lập một hệ thống luận điểm. Phương pháp thống kê, phân loại để tìm hiểu, phân loại các kiểu nhân vật, cốt truyện, giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn. Phương pháp so sánh, đối chiếu để thấy được những nét chung và nét riêng độc đáo tạo nên phong cách truyện ngắn nhà văn Võ Thị Xuân Hà so với các nhà văn cũng thời, ngoài ra chúng tôi cũng tiếp cận thi pháp học để tìm ra những nét đặc sắc của nghệ thuật truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, mục lục, luận văn của chúng tôi được triển khai thành ba chương: Chương 1: Khái lược lí thuyết phong cách và sự hình thành phong cách truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Chương 2: Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. Chương 3: Một số phương thức biểu hiện trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà. 7. Đóng góp của luận văn Với đề tài Phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn Võ Thị Xuân Hà, luận văn đi vào tìm hiểu các phương diện cơ bản của phong cách truyện ngắn nhà văn, qua đó thấy được giá trị và những thành công trong lĩnh vực truyện ngắn của Võ Thị Xuân Hà, góp phần khẳng định vị thế của nhà văn trong văn học Việt Nam đương đại. 10 NỘI DUNG CHƯƠNG 1 KHÁI LƯỢC LÍ THUYẾT PHONG CÁCH VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHONG CÁCH TRUYỆN NGẮN VÕ THỊ XUÂN HÀ 1.1. Khái quát về phong cách 1.1.1. Một số quan niệm về phong cách Khái niệm phong cách có nguồn gốc từ “stylos” (Hy Lạp), “stylus” (La Mã), “style” (Pháp). Nó được coi như một thuật ngữ của ngôn ngữ học, nghệ thuật và văn học (với nghĩa khởi đầu là “nét chữ, bút pháp”). Có nhiều định nghĩa về phong cách – những định nghĩa này xòe ra như cái quạt giữa sự thừa nhận phong cách là một phạm trù thẩm mỹ rộng nhất, bao quát và sự thừa nhận nó như những đặc điểm của một tác phẩm văn học riêng lẻ (theo M.B. Khravchenko). Chúng tôi tạm chia thành hai khu vực: 1- Quan niệm của các nhà nghiên cứu nước ngoài (chủ yếu là Liên Xô cũ) 2- Quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước. 1.1.1.1. Quan niệm của các nhà nghiên cứu nước ngoài. Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại với các đại biểu xuất sắc như Platon, Aristore, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu sắc. Do điều kiện bài viết có hạn, ở đây chúng tôi nghiên cứu chủ yếu dựa trên các định nghĩa khác nhau về phong cách của các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ. Đ. Likhachev đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của phong cách nhà văn trong việc tái tạo hiện thực đời sống bằng các phương tiện nghệ thuật, đồng thời nhìn nhận phong cách với hai tư cách: “phong cách như là hiện tượng ngôn ngữ văn học và phong cách như là một hệ thống hình thức và nội dung 11 nhất định”. Còn Ar. Grigorian nêu lên mối quan hệ gắn bó giữa phong cách với phương pháp, thế giới quan, bút pháp của cá nhân nghệ sĩ: “phong cách là sự thống nhất cao nhất của tất cả các phạm trù đó”. V. Kovakev coi “phong cách- đó là một sự thống nhất chỉnh thể của nhà văn (...) đó là những liên hệ qua lại giữa những yếu tố trong hệ thống nghệ thuật của nhà văn, là sự quy định lẫn nhau của những yếu tố đó”. L. Novichenco cho rằng phong cách và cá tính của người nghệ sĩ là hai khái niệm gần gũi, tính cộng dồng có ảnh hưởng tới phong cách của hàng loạt nhà văn nhưng xét cho cùng phong cách vẫn là cái đặc thù; vẻ đặc thù này được quy định bởi những quan điểm chung về cuộc sống và thể hiện trong những đặc điểm có tính chất đặc trưng về nội dung và hình thức của những tác phẩm ấy. V. Đneprov và Ya. Elxberg lại đưa ra một định nghĩa khác tương đối hoàn chỉnh về phong cách: “phong cách biểu hiện sự toàn vẹn của hình thức có tính nội dung được hình thành trong sự phát triển, trong tác động qua lại và trong sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật, dưới ảnh hưởng của đối tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan của nhà văn và của phương pháp của anh ta vốn thống nhất với thế giới quan. Phong cách được hình thành từ tất cả những yếu tố ấy, nảy sinh từ chúng mà ra. Phong cách – đó là sự thống trị của hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó”. Trong “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học”, M. B. Khravchenko đã dành một dung lượng tương đối lớn để bàn về phong cách. Tác giả đưa ra rất nhiều định nghĩa khác nhau về phong cách của các nhà nghiên cứu Liên Xô cũ để khẳng định sự phong phú và tính đa dạng trong quan niệm về phong cách. Tuy không có sự thống nhất chung nhưng về cơ bản các nhà nghiên cứu đã nhất trí coi phong cách là “biểu hiện những đặc điểm của cá tính sáng tạo nhà văn, sự hoàn chỉnh của nhận thức nhà văn về 12 cuộc sống, của cách nhìn đối với thế giới” [27]. Phong cách cá nhân được hình thành dần trong quá trình sáng tạo, trong việc nắm bắt và xử lý các vấn đề của cuộc sống; bằng các thủ pháp nghệ thuật, các phương thức kết cấu tác phẩm, các yếu tố ngôn ngữ, đề tài, tư tưởng, nhân vật... Với tất cả các yếu tố nội dung và hình thức mang tính đặc thù của tác phẩm, nhà văn sẽ tạo lập cho mình một phong cách riêng. Bên cạnh tính ổn định, nhà văn cần tránh lặp lại mình bằng cách đi tìm những phương thức thể hiện mới. Như vậy, xung quanh khái niệm phong cách có rất nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau nhưng tựu chung lại có hai luồng ý kiến cơ bản: một nhấn mạnh sự thống nhất của những yếu tố nội dung và yếu tố hình thức của tác phẩm; một cho rằng phong cách được coi như là hình thức toàn vẹn có tính nội dung. Tuy nhiên, vẫn có thể nhận ra sự thống nhất bởi các tác giả đều đặc biệt quan tâm đến hai yếu tố: thứ nhất là nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn chương; thứ hai là tài năng độc đáo của cá nhân người nghệ sĩ. 1.1.1.2. Quan niệm của các nhà nghiên cứu trong nước Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi trong Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm: “Phong cách sáng tác (phong cách nghệ thuật) là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc” [8]. Trong nghĩa rộng: “Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất” [8, tr255 - 256]. 13 Phương Lựu định nghĩa: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng cũng như nghệ thuật, có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú” [29, tr89]. Hoài Thanh từng viết về phong cách trong phê bình văn học: “Chớ vội đi tìm cái gọi là phong cách. Hãy cứ nghiên cứu thật sâu, thật kĩ, gắng phát hiện những vấn đề ẩn khuất bằng cả tâm hồn và trí tuệ của mình, kỳ thật chín. Sau đó hãy cầm bút. Và hãy cố biểu đạt sao cho chính xác nhất, gọn nhất ý tưởng của mình. Lúc này, phong cách tự nó sẽ đến. Không phải mất công tìm kiếm gì cả. Bởi vì phong cách chính là tổng thể quá trình sáng tác đó”. Phan Ngọc cũng là một trong những người đầu tiên phê bình phong cách học ở Việt Nam với công trình Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Công trình này là một nghiên cứu mới về phong cách học khi bộ môn này ở Việt Nam còn thiếu một lí luận nhất quán để khẳng định như một khoa học thực sự. Phan Ngọc đã tiến hành xây dựng lại các khái niệm của môn phong cách học, khám phá mối quan hệ nội dung và hình thức với tần suất lặp lại của một hiện tượng sau đó kiểm chứng trên trục lịch sử và thời đại. Theo Phan Ngọc, mỗi kí hiệu ngôn ngữ có hai mặt, mặt thông báo và mặt biểu cảm. Phong cách học là khoa học nghiên cứu mặt biểu cảm của ngôn ngữ. Ông cũng chỉ rõ bản chất của phong cách là các kiểu lựa chọn riêng: “Phong cách là một cấu trúc hữu cơ tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử, và chứa đựng một giá trị lịch sử có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một thể loại, một tác phẩm hay một tác giả”. “Các kiểu lựa chọn” là sự lựa chọn lặp lại với tần số cao tạo thành quy luật, thành một yếu tố ổn định bền vững, chịu sự chi phối của một quan niệm nghệ thuật nhất định. Một kiểu lựa chọn có giá trị thẩm mỹ trước hết phải được chuẩn bị về ngữ cảnh, môi trường sống cho nó và của nó. Đánh giá một hiện tượng phong cách học chính là nhận xét xem nó có phù hợp với ngữ cảnh hay không. Như vậy, phong cách nghệ thuật cũng là một phạm trù thẩm mỹ 14 chỉ sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng và phương tiện tổ chức văn bản nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo của một nhà văn. Sau khi đã trình bày quan điểm của mình về phong cách và phong cách học, Phan Ngọc đi sâu vào tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Ông đã thực hiện một loạt những đối lập Truyện Kiều với tất cả những gì liên quan đến Truyện Kiều trước đó để tìm ra cái đổi mới của Nguyễn Du. Như vậy phong cách học của Phan Ngọc không còn là phong cách học hình thức, mà đã gắn chặt với nội dung, điều kiện lịch sử và khu biệt với phong cách thời đại. Đỗ Đức Hiểu trong “Suy nghĩ về phong cách lớn và phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam” đã xem những phong cách lớn như là tiêu chí phân kỳ văn học. Đó là tiêu chí dựa trên những biến động, những thay đổi của bản thân văn học trong quy luật phát triển của nó. Khi một thời kỳ văn học có những thay đổi, những phá vỡ, những sáng tạo, những bước ngoặt, chúng ta có thể xác định bước chuyển mình của nó sang một thời kì khác. Theo đó, Đỗ Đức Hiểu chủ trương phân chia văn học sử Việt Nam thành hai thời đại lớn: thời đại thứ nhất (thế kỉ X- XIX) với phong cách được đặc trưng bởi các sáng tác tiêu biểu nửa cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu XIX; thời đại thứ hai (đầu thế ki XX trở về sau) với phong cách mang đậm dấu ấn sáng tác của Hồ Chí Minh – mỗi thời đại được đánh dấu bằng một phong cách lớn. Ông định nghĩa phong cách lớn: “phong cách này phủ định một số nhân tố của văn học trước nó, hoặc tiếp thu và phát triển; mặt khác nó sáng tạo những nhân tố mới, những phương thức nghệ thuật mới, để biểu hiện những tình cảm, những tư duy, những khát vọng mới” [22]. Như vậy, xung quanh vấn đề phong cách nghệ thuật có rất nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều nhấn mạnh đến cá tính sáng tạo độc đáo mang tính thẩm mỹ của nhà văn, cụ thể 15 hóa các yếu tố tạo phong cách nghệ thuật tác giả. Nhà văn muốn có phong cách riêng trước hết phải có tư tưởng độc đáo, có cách cảm nhận thế giới độc đáo qua cảm hứng và hệ thống phương thức riêng, lẽ dĩ nhiên phải là “tính độc đáo chân chính” (Heeghen). Cái khó và cần thiết trong nghiên cứu phong cách cá nhân nhà văn là ở việc tìm sự thống nhất trong nhiều biểu hiện đa dạng, phức tạp của toàn bộ tiến trình tư tưởng – thẩm mỹ, trong toàn bộ sáng tác của nhà văn. Phê bình phong cách học đã và vẫn đang được nghiên cứu, khai phá. Qua những ý kiến về phong cách của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, có thể rút ra những nhận xét cơ bản nhất về phong cách: Phong cách là những biểu hiện độc đáo của tài năng sáng tạo nghệ thuật, có tính thống nhất và tương đối ổn định, được lặp lại trong nhiều tác phẩm của nhà văn, thể hiện cái nhìn và sự chiếm lĩnh nghệ thuật độc đáo của nhà văn đối với thế giới và con người. Văn học cần có sự đa dạng, độc đáo của những cá tính sáng tạo. Văn học tồn tại và phát triển phải gắn liền với phong cách. Không phái tác giả nào cũng có phong cách riêng nổi bật. Chỉ có những tác giả có tài năng, để lại dấu ấn riêng rõ nét mới có phong cách nghệ thuật, còn lại đa số chỉ mang “tính chất phong cách” mà thôi. Phong cách - đó là kết quả sáng tạo không ngừng của các nghệ sĩ và “tương lai chỉ thuộc về những ai nắm được phong cách” (V. Hugo). 1.1.2. Một số khuynh hướng nghiên cứu phong cách Có rất nhiều quan niệm khác nhau về các khuynh hướng nghiên cứu phong cách. Trong luận văn này, chúng tôi dựa theo quan niệm của nhà nghiên cứu Tôn Thảo Miên. Theo Tôn Thảo Miên, có bốn nhóm khuynh hướng nghiên cứu phong cách: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về phong cách. - Nghiên cứu phong cách tác giả. - Nghiên cứu phong cách tác phẩm.

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net