Phát triển trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Phát triển trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Chỉ số trí tuệ cảm xúc (Emotional Quotient) EQ Học viên HV Học viên sĩ quan cấp phân đội HVSQCPĐ Học viện Hậu cần HVHC Kết quả học tập KQHT Trắc nghiệm trí tuệ cảm xúc MSCEIT Trí tuệ cảm xúc (Emotional Intelligence) EI Trung bình TB Sĩ quan lục quân 1 SQLQ1 Sĩ quan Thông tin SQTT MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC VIÊN SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI 7 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc 7 1.2. Các khái niệm cơ bản 15 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội 32 Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP TÂM LÝ SƯ PHẠM NHẰM PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ CẢM XÚC CHO HỌC VIÊN SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 40 2.1. Phương pháp tổ chức nghiên cứu thực trạng 40 2.2. Tiêu chuẩn đánh giá và thang đánh giá trí tuệ cảm xúc 42 2.3. Phân tích thực trạng mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội hiện nay 44 2.4. Biện pháp tâm lý sư phạm cơ bản nhằm phát triển trí tuệ cảm xúc cho học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội hiện nay 63 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 PHỤ LỤC 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Trí tuệ là một trong những nhân tố quan trọng trong cuộc sống của mỗi con người, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển con người nói chung, đến việc chuẩn bị đội ngũ nhân lực, bồi dưỡng nhân tài đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam nói riêng. Trong những thập niên gần đây, trí tuệ là vấn đề được các nhà tâm lý học trên thế giới tranh luận và nghiên cứu sôi nổi. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về trí tuệ và đo lường trí tuệ. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực trí tuệ đã làm thay đổi quan niệm và khả năng ứng dụng của trí tuệ. Trí tuệ không còn được hiểu một cách hạn hẹp là trí thông minh, trí sáng tạo mà còn bao gồm cả trí tuệ cảm xúc. Các nghiên cứu gần đây đã đưa ra kết luận gây ngạc nhiên đó là: chỉ số thông minh IQ đứng thứ hai sau chỉ số trí tuệ cảm xúc EQ trong việc xác định thành công của cá nhân trong công việc và trong cuộc sống. Trí tuệ cảm xúc là một hiện tượng tâm lý phức tạp có ảnh hưởng to lớn đến sự thành công trong hoạt động nghề nghiệp và trong cuộc sống của mỗi người. Khi con người có được những yếu tố của trí tuệ cảm xúc thì con đường đi đến những kỳ vọng trong tương lai sẽ bớt khó khăn hơn. Trí tuệ cảm xúc là yếu tố giúp cá nhân khai thác những thế mạnh và khắc phục những hạn chế của bản thân, kể cả trí thông minh để chớp lấy thời cơ giành thành công. Tại Đại hội Đảng XI đã xác định: phải “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước”[45, tr.324]. Trong nguồn nhân lực đó, trí tuệ cảm xúc có vai trò đặc biệt quan trọng. Trong hoạt động quân sự, để hoàn thành tốt mọi chức trách, nhiệm vụ được giao, người cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy không những có trình độ chuyên môn vững chắc mà còn phải có sự nhạy cảm, tinh tế trong việc nhận biết và đánh giá những xúc cảm của chiến sĩ, có khả năng dự đoán nhu cầu hay sự phát triển nhân cách của chiến sĩ,…để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đây chính là những biểu hiện của trí tuệ cảm xúc mà người cán bộ, sĩ quan cần có. 4 Phát triển trí tuệ cảm xúc cho học viên sĩ quan cấp phân đội nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường quân đội là yêu cầu có tính cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Trí tuệ cảm xúc vừa là một phẩm chất tâm lý đặc trưng cho sự phát triển nhân cách của học viên, vừa là điều kiện bên trong giúp học viên rèn luyện trở thành người cán bộ, sĩ quan thành công trong tương lai. Nhà trường quân đội là trung tâm đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong toàn quân. Nhận thức đúng đắn vai trò của trí tuệ cảm xúc đối với sự hoàn thiện, phát triển nhân cách người sĩ quan cấp phân đội, thời gian qua các nhà trường đã rất chú trọng đến vấn đề phát triển trí tuệ cảm xúc cho học viên sĩ quan cấp phân đội trong quá trình đào tạo thông qua việc đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, hình thức, phương tiện kỹ thuật dạy học. Do vậy, trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội đã có sự phát triển khá tốt, chất lượng học tập, rèn luyện của các đối tượng học viên được giữ vững và có sự tiến bộ về nắm những nội dung lý luận cơ bản, biết vận dụng vào thực tiễn, giao tiếp và phát triển các kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, trí tuệ cảm xúc của học viên còn bộc lộ một số yếu kém, biểu hiện: tính linh hoạt, nhạy cảm, điều khiển, kiểm soát cảm xúc chưa rõ nét; trong học tập, rèn luyện và hoạt động, giao tiếp còn chưa kiềm chế, kiểm soát được cảm xúc, tình cảm của mình dẫn đến những mâu thuẫn, xung đột và vi phạm kỷ luật.... Mặt khác, hiện nay các đề tài nghiên cứu trí tuệ cảm xúc chỉ mới hướng đến các đối tượng như: Giáo viên, một số ít trên sinh viên các trường Cao đẳng, Đại học mà chưa quan tâm nghiên cứu trên học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội. Chính vì vậy, nghiên cứu và phát triển trí tuệ cảm xúc cho học viên sĩ quan cấp phân đội trong các nhà trường quân đội hiện nay là việc làm cần thiết và thiết thực. Xuất phát từ các cơ sở nêu trên, tôi lựa chọn đề tài “Phát triển trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội ” để nghiên cứu. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội, trên cơ sở đó đề xuất biện pháp tâm lý sư phạm nhằm phát triển trí tuệ cảm xúc cho họ ở các nhà trường quân đội hiện nay. 5 *Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trí tuệ cảm xúc; trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội; các yếu tố ảnh hưởng tới sự hình thành, phát triển trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội. - Khảo sát thực trạng trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội hiện nay. Chỉ ra nguyên nhân của thực trạng. - Đề xuất một số biện pháp tâm lý sư phạm cơ bản nhằm phát triển trí tuệ cảm xúc cho học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội hiện nay. 3. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Trí tuệ cảm xúc. * Khách thể nghiên cứu Học viên sĩ quan cấp phân đội *Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng mức độ và biểu hiện của trí tuệ cảm xúc trong hoạt động, giao tiếp của học viên. Nghiên cứu học viên sĩ quan cấp phân đội năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba năm học 2010 - 2011 thuộc trường: Trường Sĩ quan lục quân 1, Học viện hậu cần, Trường sĩ quan thông tin. 4. Giả thuyết khoa học Sự phát triển trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội diễn ra chủ yếu trong hoạt động dạy - học và phụ thuộc tất yếu vào chủ thể người học viên và mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phương pháp dạy - học. Nếu xây dựng được động cơ học tập đúng đắn, phát huy tính tích cực nhận thức của học viên trong các hình thức dạy học; tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, cách thức quản lý; kết hợp với tạo ra các điều kiện sư phạm thuận lợi, tăng cường các điều kiện, phương tiện kỹ thuật dạy học thì sẽ phát triển được trí tuệ cảm xúc cho học viên trong quá trình đào tạo, đáp ứng yêu cầu đào tạo sĩ quan cấp phân đội trong tình hình hiện nay. 6 5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục, đào tạo, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, vấn đề xây dựng quân đội nhân dân Việt Nam trong tình hình mới, các nguyên tắc phương pháp luận của tâm lý học Mác-Xít như: nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng của các hiện tượng tâm lý người, nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý, ý thức với hoạt động, nguyên tắc tiếp cận nhân cách... Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành và liên ngành; trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, khái quát, lôgích - lịch sử, khảo sát điều tra, trắc nghiệm, quan sát, phỏng vấn và phương pháp xử lý thông tin. 6. Ý nghĩa của đề tài Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về trí tuệ cảm xúc, chỉ rõ mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của học viên sĩ quan cấp phân đội trong nhà trường quân đội hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng sư phạm trong nhà trường vận dụng vào quá trình huấn luyện, giáo dục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm: Phần mở đầu, 2 chương, 7 tiết, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 7 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA HỌC VIÊN SĨ QUAN CẤP PHÂN ĐỘI TRONG NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề trí tuệ cảm xúc 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới Trí tuệ cảm xúc là một hiện tượng tâm lý mới biết đến khoảng những thập niên cuối thế kỷ XX. Việc phát hiện ra trí tuệ cảm xúc đã làm thay đổi quan niệm truyền thống về trí tuệ và có ảnh hưởng rộng rãi, mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống. Phong trào nghiên cứu trí tuệ cảm xúc được bắt nguồn và phát triển mạnh mẽ nhất ở Mỹ với hai hướng nghiên cứu chủ yếu sau: * Hướng thứ nhất, nghiên cứu EI theo kiểu thuần năng lực tâm thần Ở hướng nghiên cứu này có nhiều nhà tâm lý học bàn về EI, tiêu biểu là các tác giả sau: E.L. Thorndike, giáo sư tâm lý giáo dục ở trường Đại học tổng hợp Columbia là một trong những người đầu tiên tìm cách nhận dạng trí tuệ cảm xúc mà lúc đó ông gọi là trí tuệ xã hội vào cuối những năm 1930. Theo ông, trí tuệ xã hội “ là năng lực hiểu và điều khiển mà một người đàn ông, đàn bà, con trai và con gái sử dụng để hành động một cách khôn ngoan, sáng suốt trong các mối quan hệ của con người”. Đó là một dạng năng lực mà sự có mặt của nó rất phong phú, từ công việc của người y tá, người gác cổng trong doanh trại, trong nhà máy, quầy bán hàng, nhưng nó cũng có những điều kiện được tiêu chuẩn hóa một cách chính thức ở phòng thí nghiệm. E.L. Thorndike đề nghị một số phương pháp đánh giá trí tuệ xã hội trong phòng thí nghiệm nhưng đó là quá trình giản đơn: làm cho có sự phù hợp giữa những bức tranh có những khuôn mặt biểu lộ những xúc cảm khác nhau với việc nhận biết, mô tả đúng những xúc cảm đó [13,tr.4]. R. Thorndike và S. Stern xem xét những cố gắng đo lường của E.L.Thorndike đưa ra. Họ nhận diện được 3 khu vực khác nhau kề cận với trí tuệ xã hội có thể liên quan đến nó, thường lầm lẫn với nó, đó là: - Lĩnh vực thứ nhất là thái độ cá nhân đối với xã hội. - Lĩnh vực thứ hai là sự hiểu biết xã hội: “Khỏe mạnh giỏi chơi thể thao”, những vấn đề đương đại và những thông tin chung về xã hội. Khu vực này dường như liên quan đến khu vực một. 8 - Lĩnh vực thứ ba của trí tuệ là mức độ điều chỉnh xã hội của cá nhân: hướng nội và hướng ngoại được đo bằng những câu trả lời đối với các phiếu hỏi [31, tr.72]. D. Weschler mặc dù vẫn tiếp tục phát triển trắc nghiệm IQ của mình vốn lúc đó đã được sử dụng rộng rãi, cũng phải thừa nhận rằng các năng lực xúc cảm như là một phần trong vô số các năng lực của con người. Ông cho rằng yếu tố phi trí tuệ lại quan trọng cho con người thích nghi và đạt được những thành tích trong cuộc sống. Theo ông, yếu tố phi trí tuệ được xem là cần thiết để dự đoán khả năng thành công của một người [31, tr.34 - 35]. H. Gardner là người có công lớn trong việc xem xét lại lý thuyết trí tuệ cảm xúc trong tâm lý học. Ông đã cho ra đời tác phẩm “Frames of mind” như là một tuyên ngôn chống lại độc quyền IQ, chứng minh rằng không có hình thức duy nhất, toàn khối của trí tuệ quyết định thành công trong cuộc đời, đúng hơn có một thang trí tuệ rộng lớn. Theo lập luận đó, ông đưa ra mô hình đa trí tuệ và cho rằng trí tuệ cá nhân gồm hai loại: trí tuệ liên nhân cách (interpersonal intelligence) và trí tuệ về bản thân (intrapersonal intelligence). Ông cho rằng hai loại trí tuệ này cũng quan trọng như trí thông minh được biểu thị bởi chỉ số IQ và đo bằng trắc nghiệm IQ [Dẫn theo 38, tr.32-33]. P. Salovey (đại học Yale - Mỹ), và J. Mayer (đại học Newhampshire- Mỹ) là hai nhà tâm lý học Mỹ đã công bố định nghĩa chính thức đầu tiên về trí tuệ cảm xúc vào năm 1990: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc của bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình”[50, tr.60]. Định nghĩa này đã có ảnh hưởng mạnh nhất đến lý thuyết trí tuệ cảm xúc tại thời điểm đó. Cũng trong năm 1990 hai ông cùng với M.T. Đipaolo đã công bố bộ trắc nghiệm đo trí tuệ cảm xúc và từ đây hai ông đã dẫn đầu sự phát triển khoa học về lý thuyết và phương pháp xác định chỉ số EQ. Sau bảy năm, Mayer và Salovey (1997) đã chỉnh sửa đôi chút định nghĩa trí tuệ cảm xúc đã nêu vào năm 1990 thành như sau: “Trí tuệ cảm xúc như là năng lực nhận biết, bày tỏ xúc cảm, hòa xúc cảm vào suy nghĩ, hiểu, suy luận với xúc cảm, điều khiển, kiểm soát xúc cảm của mình và của người khác”[Dẫn theo 20, tr.98]. Dựa trên định nghĩa này mô hình trí tuệ cảm xúc thuần năng lực được xây dựng gồm 4 năng lực cơ bản tương ứng với mức độ từ thấp đến cao: Nhận thức và bày tỏ cảm xúc; hòa xúc cảm vào suy nghĩ; thấu hiểu và biết phân tích xúc cảm; điều khiển các xúc cảm một cách có suy nghĩ, có tính toán. 9 P. Salovey và J. Mayer (1990) đưa ra mô hình EI thuần năng lực bao gồm 3 quá trình trí tuệ (mantal process) liên quan đến nhau và hàm chứa các thông tin cảm xúc dựa trên cách hiểu EI như là năng lực làm chủ, điều khiển, kiểm soát tình cảm của mình và của người khác, để định hướng cách suy nghĩ và cách hành động của bản thân. Những quá trình của mô hình EI đó bao gồm: Đánh giá và biểu hiện xúc cảm (bản thân và người khác); Điều khiển, kiểm soát xúc cảm (bản thân và người khác); Sử dụng xúc cảm một cách phù hợp để giải quyết vấn đề, bao hàm từ cách suy nghĩ linh hoạt, suy nghĩ sáng tạo, tập trung chú ý trực tiếp và động cơ thúc đẩy. Sau khi công bố mô hình EI này, hai ông đã đưa ra hai cách đánh giá đo lường EI: phương pháp đánh giá EI dựa vào tự thuật ( self-report measures) và phương pháp đánh giá EI dựa vào năng lực hành động (ability measures). Tuy nhiên, lúc bấy giờ J.Mayer và P.Salovey đã lưu ý rằng, cần làm sao để những thành phần của EI có thể đánh giá như một năng lực. Dựa vào mô hình EI này, Shutte và các đồng sự của bà đã soạn thảo và phát triển một thang đo lường EI theo kiểu tự đánh giá gồm 33 item, còn gọi là EIS. Tuy nhiên người ta nhận thấy rằng EIS có thể không thích hợp với việc đo lường EI mặc dù có nhiều nghiên cứu đã cho thấy có nhiều nhân tố có liên quan đến đặc điểm của EI và quá trình thông tin EI. Sau 7 năm nghiên cứu và ứng dụng EI (1990), J.Mayer và P.Salovey nhận ra những thiếu xót của mô hình này và đã cùng đồng nghiệp là David Caruso bổ sung, đổi mới để cho ra đời quan niệm mới về EI và một mô hình EI mới vào năm 1997. Theo đó, họ định nghĩa: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm, hòa xúc cảm vào suy nghĩ, hiểu và suy luận với xúc cảm và điều khiển, quản lý xúc cảm của mình và của người khác”. Mô hình EI (1997) bao gồm năng lực xúc cảm: Nhận thức xúc cảm (của bản thân, người khác và môi trường xã hội); Sử dụng xúc cảm để đẩy mạnh tư duy và để tạo ra một sự chia sẻ xúc cảm tương ứng; Hiểu rõ xúc cảm, chẳng hạn: hiểu nguyên nhân xúc cảm, sự biến đổi của chúng qua thời gian,...; Kiểm soát sự kết hợp của lập luận và dữ kiện về những xúc cảm để ra những quyết định chiến lược hay còn gọi là kiểm soát xúc cảm. Mô hình này nhấn mạnh đến mặt nhận thức, tập trung vào khả năng tâm trí cụ thể phục vụ cho việc nhận biết và tổ chức điều khiển xúc cảm. Điểm nổi bật của mô hình EI (1997) so với mô hình EI (1990) ở chỗ là các năng lực trong mô hình EI (1997) không đơn thuần chỉ có mối quan hệ với nhau như những thành phần trong một cấu trúc mà còn như một quy trình liên tục. Ý nghĩa quan trọng của 10 mô hình EI (1997) đem lại là có thể xây dựng một quy trình phát triển EI gồm 4 giai đoạn tương ứng với 4 thành tố tạo nên EI. Dựa vào mô hình EI thuần năng lực năm 1997, D.Caruso và các cộng sự (2006) đề xuất một quy trình phát triển EI gồm 4 giai đoạn như sau: nhận thức xúc cảm, sử dụng xúc cảm, hiểu rõ xúc cảm và kiểm soát xúc cảm. Dựa trên mô hình EI thuần năng lực (1997), J.Mayer, P.Salovey và D.Caruso đã soạn thảo trắc nghiệm đo lường EI theo kiểu phép đo năng lực mang tên MSCEIT ( Mayer Salovey Caruso Emotional Intelligence Test) vào năm 2002. * Hướng thứ hai, nghiên cứu EI theo kiểu hỗn hợp Ở hướng nghiên cứu này, nổi lên một số nhà tâm lý học tiêu biểu sau đây: R. Bar-On - nhà tâm lý học người Israel (quốc tịch Mỹ) là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ EQ trong luận án tiến sĩ của mình (1985). Ông đặt trí tuệ cảm xúc trong phạm vi lý thuyết phân cách, đưa ra mô hình Well-being(1997) với ý định trả lời câu hỏi: “Tại sao một người nào đó lại có khả năng thành công trong cuộc sống hơn những người khác”[Dẫn theo 48, tr.15]. Ông đã xem xét lại những nghiên cứu tâm lý về các đặc tính của nhân cách có liên quan đáng kể đến sự thành công trong cuộc sống và đã nhận diện được năm khu vực (nhân tố) bao quát về mặt chức năng phù hợp với sự thành công trong cuộc sống gồm: Các kỹ năng làm chủ xúc cảm của mình (Intrapersonal skills); Các kỹ năng điều khiển xúc cảm liên cá nhân (Interpersonal skills); Tính thích ứng (adaptability); Kiểm soát stress ( stress management); Tâm trạng chung (general mood). Tiếp cận EI dưới góc độ nhân cách, R.Bar-On (1997) đưa ra mô hình EI hỗn hợp. Lý thuyết của Bar-On kết hợp những đặc tính được xem là năng lực tâm lý chẳng hạn: tự nhận biết cảm xúc của mình với các đặc tính khác được xem là khác biệt với năng lực tâm lý như là tính độc lập, tính tự trọng và tâm trạng. Theo Bar-On cấu trúc EI gồm có 5 khả năng sau: + Khả năng hiểu mình, thể hiện khả năng làm chủ cảm xúc của mình, thể hiện ở sự nhận thức ra cảm xúc ở bản thân, ở tính chủ động, tự trọng, tự lập và sự hiện thực hóa. + Khả năng hiểu người khác, thể hiện ở trong các quan hệ cá nhân, trong trách nhiệm xã hội và ở sự đồng cảm với người khác. + Khả năng thích ứng, thể hiện trong khả năng giải quyết vấn đề, trong việc kiểm tra cảm xúc qua thực tiễn và trong tính mềm dẻo của tư duy. + Khả năng kiểm soát căng thẳng (stress), thể hiện ở khả năng chịu đựng các căng thẳng gặp phải, khả năng kiểm soát được các bốc đồng, xung tính. 11 + Khả năng giữ tâm trạng cân bằng, thể hiện ở sự hạnh phúc, tinh thần lạc quan. Dựa vào mô hình EI hỗn hợp, R.Bar-On đã soạn thảo trắc nghiệm đo lường EI theo kiểu tự đánh giá là EQ - I (Emotional Quotient- Interview), thang đo EI của Goleman (1995) hay thang đo EQ Map của Cooper (1996-1997),... D. Goleman, tiến sĩ tâm lý học của Đại học Harvard, người phụ trách chuyên mục khoa học của tờ Times đã tập hợp các kết quả nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc và cho ra đời cuốn sách với nhan đề “Trí tuệ cảm xúc” vào năm 1995 thì thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” đã trở nên nóng bỏng nhất trong xã hội Mỹ. D. Goleman nghiên cứu trí tuệ cảm xúc theo lý thuyết hiệu quả thực hiện công việc, ông xác định: mô hình trí tuệ cảm xúc dựa trên lý thuyết này có thể ứng dụng trực tiếp vào khu vực - hiệu quả quản lý và hoàn thành công việc, đặc biệt trong dự đoán mức độ tối ưu của việc thực hiện công việc từ người bán hàng đến công việc của nhà quản lý. Mô hình trí tuệ cảm xúc mà D.Goleman đề xuất là một mô hình kiểu hỗn hợp gồm 5 lĩnh vực: + Hiểu biết về cảm xúc của mình (Knowing one’s emotions); thể hiện ở sự tự nhận biết những cảm xúc của mình khi nó xảy ra ở mọi lúc. + Quản lý cảm xúc (Managing emotion): thể hiện ở khả năng xử lý cảm xúc một cách thích hợp, ở năng lực an ủi, động viên con người, năng lực tìm ra các phương pháp để loại bỏ những nỗi sợ hãi, lo lắng, giận dữ và buồn đau. + Tự thúc đẩy, động cơ hóa mình (Motivating oneself): thể hiện ở năng lực điều khiển cảm xúc hướng vào mục đích hành động; khả năng biết trì hoãn những ham muốn của bản thân, chế ngự, dập tắt sự bốc đồng xung tính và khả năng hòa vào tâm trạng hứng khởi. + Nhận biết cảm xúc ở người khác (Recognizing emotion in others): thể hiện ở khả năng đồng cảm với người khác, bao gồm sự nhạy cảm, quan tâm đến cảm xúc của người khác và khả năng đoán trước được những triển vọng của họ, làm cho mình phù hợp với điều người khác cần và mong muốn. + Xử lý các quan hệ (Handling relationships): thể hiện ở khả năng điều khiển cảm xúc ở người khác và biết phối hợp hành động hài hòa với người khác. Xử lý các quan hệ sẽ cho thấy trình độ tự nhận thức và năng lực xã hội của cá nhân như thế nào?. Xử lý các mối quan hệ còn chứa đựng khả năng kiểm soát cảm xúc trong quan hệ với người khác, năng lực xã hội và kỹ năng xã hội. Tuy nhiên, năm 2001, D.Goleman lại đưa ra cấu trúc của EI gồm có hai nhóm năng lực: năng lực cá nhân và năng lực xã hội. 12 Cấu trúc của trí tuệ cảm xúc [20, tr.104] Năng lực cá nhân Năng lực xã hội (quan hệ với mình) (quan hệ với người khác) • Tự biết mình • Nhận biết các quan hệ xã hội - Nhận biết cảm xúc của mình - Đồng cảm - Đánh giá chính xác mình - Định hướng sự phục vụ - Tự tin - Biết cách tổ chức • Tự kiểm soát, quản lý mình • Quản lý, điều khiển các mối quan hệ xã hội - Kiểm soát cảm xúc của mình - Phát triển trước người khác - Có lòng tin - Tạo ảnh hưởng - Tự ý thức - Giao tiếp - Thích ứng - Kiểm soát xung đột - Động cơ thành đạt - Lãnh đạo có tầm nhìn, khôn ngoan - Sáng tạo - Xúc tác để thay đổi - Xây dựng các mối quan hệ - Tinh thần đồng đội và sự hợp tác D.Goleman là tác giả của một loạt các tác phẩm: “Trí tuệ cảm xúc. Làm thế nào để biến những xúc cảm của mình thành trí tuệ” (1997), “Làm việc với trí tuệ cảm xúc” (1998), “Nghệ thuật lãnh đạo cơ bản: Việc nhận thấy sức mạnh của EI” (2002), “Những xúc cảm dễ bị phá vỡ: Làm thế nào để vượt qua” (2003)…Những nghiên cứu của ông không chỉ dừng lại ở việc xác định bản chất của EI mà còn tìm ra những biện pháp giáo dục EI một cách có hiệu quả. Như vậy, nhìn một cách tổng thể có thể nói trong tâm lý học phương Tây có hai hướng đi sâu nghiên cứu EI dưới những cách tiếp cận khác nhau và đưa ra mô hình EI khác nhau: Trong khi mô hình EI hỗn hợp có khuynh hướng pha trộn nhiều nét của nhân cách, vừa không chứng minh được EI là loại trí tuệ mới, vừa ít có điều kiện đo lường nó một cách chính xác, tin cậy thì mô hình EI thuần năng lực nổi bật và thu hút nhiều nhà nghiên cứu cũng như đem lại nhiều lợi ích hơn của EI trong nhiều lĩnh vực như: Giáo dục học, Tổ chức nhân sự, lãnh đạo quản lý xã hội,... Mô hình EI hỗn hợp chủ trương đánh giá EI dựa vào sự tự thuật, thì mô hình EI thuần năng lực đưa ra những tiêu chuẩn đánh giá EI dựa trên hành động biểu hiện. Trên thực tế, con người thường không thông báo chính xác trình độ năng lực trí óc của mình. Điều này cũng xảy 13 ra tương tự đối với sự thông báo của cá nhân về năng lực cảm xúc. Chẳng hạn, khi yêu cầu người ta đánh giá EI của mình, rồi cung cấp cho họ một biện pháp khách quan về thực hành EI, kết quả cho thấy mối tương quan rất thấp và thường không có ý nghĩa về mặt thống kê [3]. Có thể nói, thành tựu nổi bật của các nhà tâm lý học phương Tây là đã phát hiện ra một loại trí tuệ mới - trí tuệ cảm xúc, thấy rõ vai trò to lớn của nó trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động và sự thành công trong cuộc sống của con người, tập trung đi sâu nghiên cứu làm rõ các biện pháp, cách thức phát triển trí tuệ nói chung, EI của con người nói riêng. Đó là kết quả đạt được để chúng tôi kế thừa, bổ sung những nội dung mới cho phù hợp với điều kiện hoạt động quân sự. Từ những phân tích về các mô hình EI và phương pháp đo lường EI dựa trên các mô hình của nó, chúng tôi chọn mô hình EI thuần năng lực của J.Mayer và P.Salovey (1997) làm cơ sở để nghiên cứu thực trạng của đề tài. Mô hình này được tạo thành bởi bốn nhóm năng lực cơ bản: nhận thức, bày tỏ xúc cảm, hòa xúc cảm vào suy nghĩ, hiểu biết xúc cảm và điều khiển, kiểm soát xúc cảm. 1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, vấn đề trí tuệ, đặc biệt là trí thông minh và trí sáng tạo đã được các nhà tâm lý học nghiên cứu từ lâu. Thế nhưng, những công trình nghiên cứu về một dạng trí tuệ mới - trí tuệ cảm xúc chỉ mới ở những bước đi đầu tiên. Năm 1997, thuật ngữ “trí tuệ cảm xúc” được chính thức đề cập tại hội thảo của các nhà nghiên cứu thuộc chương trình Khoa học Xã hội cấp Nhà nước KX-07 do GS.VS. Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm. Tạp chí Tâm lý học của Viện tâm lý học thuộc trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia lần đầu tiên đăng một loạt bài chuyên khảo về trí tuệ cảm xúc của PGS.TS. Nguyễn Huy Tú, bài đầu tiên in trong số 6, tháng 12/2000 với tiêu đề: “Trí tuệ cảm xúc - bản chất và phương pháp chẩn đoán ”. Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc được Nguyễn Huy Tú Việt hóa thuật ngữ tiếng Anh “Emotional Intelligence” hay thuật ngữ tiếng Đức “Emotionale Intelligenz” bằng việc chuyển tính từ Emotional, Emotionale thành tính từ Việt “cảm xúc” chứ không phải là danh từ “xúc cảm” (Emotion). Sự đảo vị trí danh từ “xúc cảm” để tạo ra tính từ “cảm xúc” nhằm làm rõ nghĩa cho thuật ngữ trí tuệ cảm xúc, cho thấy ở đây, xúc cảm là đối tượng, là địa hạt mà trí tuệ hướng tới. Điều này nói lên rõ ràng bản chất của EI là loại trí tuệ về xúc cảm. 14 Đề tài cấp Nhà nước KX-05-06 giai đoạn 2001-2005 “Nghiên cứu phát triển trí tuệ (Chỉ số IQ, EQ và CQ) của học sinh, sinh viên và lao động trẻ đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH đất nước”, do PGS.TS. Trần Kiều cùng với các nhà tâm lý và giáo dục thuộc Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục thực hiện, đã tiến hành đo lường các chỉ số trí tuệ (IQ, EQ, CQ) của học sinh, sinh viên và lao động trẻ, đã cho thấy một bức tranh chung về thực trạng mức độ trí tuệ của giới trẻ hiện nay ở cả ba miền của đất nước. Các tác giả trong các công trình nghiên cứu luận văn, luận án tâm lý học cũng đã chọn trí tuệ cảm xúc làm vấn đề nghiên cứu, chẳng hạn như: luận văn thạc sĩ của Dương Thị Hoàng Yến (2004) nghiên cứu mức độ trí tuệ cảm xúc của giáo viên tiểu học Hà Nội, mối quan hệ giữa trí tuệ cảm xúc và kết quả hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên tiểu học và chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng tới trí tuệ cảm xúc của giáo viên chủ nhiệm lớp; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Tuấn Anh (2008) nghiên cứu mức độ và biểu hiện trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường cao đẳng sư phạm Bình Dương trong hoạt động giao tiếp và chỉ ra các nguyên nhân ảnh hưởng đến trí tuệ cảm xúc của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Bình Dương; luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Dung (2007), “Trí tuệ cảm xúc với công tác chủ nhiệm lớp ở trường trung học cơ sở và con đường nâng cao loại trí tuệ này” với mục đích tìm hiểu về EI và mối quan hệ của nó với kết quả hoạt động chủ nhiệm lớp của giáo viên trung học cơ sở. Đề tài đã tiến hành thực nghiệm hai biện pháp tác động tâm lý “Tăng cường nhận thức - Tạo động cơ” và “Tác động hồi tưởng” để nâng cao EI cho giáo viên trung học cơ sở. Như vậy, các đề tài này phần lớn tập trung nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của giáo viên trong hoạt động chủ nhiệm lớp và của sinh viên trong thực tập sư phạm. Gần đây, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội tiến hành nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của sinh viên các lớp chất lượng cao thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Khoa học Tự nhiên) thực trạng và giải pháp (2007) cho thấy trí tuệ cảm xúc có ảnh hưởng đến việc xây dựng, thiết lập, vận hành các mối quan hệ xã hội nói riêng và phát triển nhân cách sinh viên nói chung. Hiện nay, các tác giả: Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Phan Trọng Ngọ, Huỳnh Văn Sơn,…và nhiều tác giả khác vẫn đang tiếp tục đi sâu nghiên cứu trí tuệ cảm xúc. 15 Trong quân đội, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên sâu nghiên cứu trí tuệ cảm xúc mà chỉ mới nghiên cứu về trí tuệ nói chung như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Văn Tỵ năm 2002 “ Thực trạng và giải pháp tâm lý cơ bản nhằm phát triển trí tuệ cho học viên đào tạo sĩ quan ở các trường đại học quân sự”, nội dung của luận văn đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về trí tuệ và việc phát triển trí tuệ cho HV đào tạo sĩ quan ở các trường Đại học quân sự, chỉ ra đặc điểm hoạt động trí tuệ và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển trí tuệ của HV, nghiên cứu thực trạng phát triển trí tuệ của HV đào tạo sĩ quan và tiến hành thử nghiệm tác động sư phạm đến quá trình phát triển trí tuệ của họ, trên cơ sở đó đã đề xuất những giải pháp tâm lý cơ bản nhằm phát triển trí tuệ cho HV đào tạo sĩ quan ở các trường Đại học quân sự, và một số công trình nghiên cứu khác cũng chỉ mới đề cập đến vấn đề xây dựng cảm xúc, tình cảm tích cực trong trong quá trình hoạt động, giao tiếp ở các tập thể quân nhân. Như vậy, có thể nói rằng những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về trí tuệ cảm xúc tuy chưa nhiều nhưng đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, các đề tài về trí tuệ cảm xúc chỉ mới tập trung nghiên cứu chỉ số trí tuệ cảm xúc, còn các biểu hiện của trí tuệ cảm xúc chưa được nghiên cứu một cách cụ thể. Đồng thời, các đề tài nghiên cứu chưa quan tâm đến đối tượng học viên trong các nhà trường quân đội, đặc biệt là HVSQCPĐ. Vì vậy, việc nghiên cứu trí tuệ cảm xúc của HVSQCPĐ trong các nhà trường quân đội là việc làm cần thiết góp phần phát triển toàn diện nhân cách người sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam tương lai. 1.2. Các khái niệm cơ bản 1.2.1. Trí tuệ cảm xúc Nếu trí thông minh được biết đến và nghiên cứu một cách phổ biến, sâu sắc trong gần một thế kỷ nay thì EI là một khái niệm mới được biết đến trên một thập kỷ trở lại đây. Những nghiên cứu đầu tiên về EI được công bố trên các tạp chí vào khoảng những năm 90 thế kỷ XX, được xem như là nhân tố dự đoán sự thành công của con người. Thuật ngữ trí tuệ cảm xúc được P. Salovey và J. Mayer sử dụng đầu tiên vào năm 1990. Sau đó vào năm 1995, D. Goleman cho ra đời cuốn sách mang tên “Emotional Intelligence” thì thuật ngữ trí tuệ cảm xúc trở nên phổ biến và thông dụng ở nước Mỹ. Từ đây, các công trình nghiên cứu trí tuệ cảm xúc diễn ra một cách rộng khắp và phổ biến. Trí tuệ cảm xúc là một vấn đề còn mới mẻ, phức tạp và đang được nghiên cứu sâu rộng. Cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về EI. Tuy nhiên, nhìn tổng quát có thể thấy hai dòng quan niệm tiêu biểu về EI: 16 - Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực tâm thần Trên cơ sở quan niệm của H.Gardner về sự tồn tại một dạng trí tuệ cá nhân bao gồm trí tuệ về mối quan hệ giữa các cá nhân và trí tuệ cá nhân hướng nội, năm 1990, P.Salovey và J.Mayer đi tiên phong trong việc phát triển lý thuyết EI theo kiểu thuần năng lực tâm thần. Hai ông đã đưa ra nội dung chính thức về EI như sau: “Trí tuệ cảm xúc là khả năng hiểu rõ cảm xúc bản thân, thấu hiểu cảm xúc của người khác, phân biệt được chúng và sử dụng những thông tin ấy để hướng dẫn suy nghĩ và hành động của mình” [Dẫn theo 50, tr.60]. Sau nhiều công trình nghiên cứu, năm 1997, P.Salovey và J.Mayer đã thay đổi đôi chút định nghĩa EI được nêu vào năm 1990, nhằm nhấn mạnh hơn nữa khía cạnh nhận thức, suy nghĩ về cảm giác và các giai đoạn phát triển trí tuệ và xúc cảm. Hai ông đã chính xác hóa nội dung định nghĩa như sau: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm; hòa xúc cảm vào suy nghĩ; hiểu và suy luận với xúc cảm; điều khiển, quản lý xúc cảm của mình và của người khác”. Cùng với quan điểm trên, Boyatizis (1999) cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết những tình cảm của mình và của người khác để tự thúc đẩy mình, kiểm soát, điều khiển xúc cảm của mình và của người khác” [20, tr.98]. Trong một cuốn sách xuất bản của mình năm 1996, H.Steve cũng đưa ra định nghĩa tương đồng với các tác giả trên, theo đó: “Trí tuệ cảm xúc là sự kết hợp giữa sự nhạy cảm về cảm xúc có tính chất tự nhiên với các kỹ năng quản lý cảm xúc có được do tự học hỏi, nhằm giúp con người đạt được hạnh phúc trong cuộc sống” [13, tr.176]. - Quan niệm trí tuệ cảm xúc theo kiểu hỗn hợp Trái với quan điểm xem EI theo kiểu thuần năng lực, quan điểm xem EI theo kiểu hỗn hợp mà đại diện tiêu biểu là R.Bar-On. Ông là người đầu tiên dùng hệ số EQ để đo lường EI. Dựa trên cơ sở hiểu biết cảm xúc và xã hội có ảnh hưởng đến khả năng đối phó có hiệu quả của con người đối với môi trường và hoàn cảnh, R.Bar-On cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc là một dãy các năng lực phi nhận thức và những kỹ năng có ảnh hưởng đến khả năng thành công của một người trong hoàn cảnh người đó phải đương đầu với những yêu cầu và sức ép từ môi trường” [Dẫn theo 49, tr.42]. Theo cách tiếp cận trên, quan niệm của D.Goleman (1995) được biết đến một cách rộng rãi. D.Goleman cho rằng: “Trí tuệ cảm xúc bao gồm các năng lực: tự kiềm chế, kiểm soát, nhiệt tình và năng lực tự thôi thúc mình” [49, tr.42]. 17 D.Goleman nhận thức được rằng ông đang đi từ EI sang cái gì đó rộng hơn khi cho rằng: Có một từ có vẻ lỗi thời cho một “cơ thể” các kỹ năng mà EI được xem là đại diện cho các kỹ năng này là: “tính nết” Các quan niệm theo kiểu hỗn hợp cho thấy có sự pha trộn hay kết hợp giữa các năng lực tâm thần và các năng lực không phải là tâm thần, chẳng hạn như các nét nhân cách: nhiệt tình, kiên trì, lạc quan,... Hiện nay, EI được các nhà tâm lý học trên thế giới định nghĩa như là khả năng tác động một cách có hiệu quả lên những cảm giác và ham muốn của bản thân (R.Busk-1991; E.L. Yakovleva-1997); khả năng hiểu sự thể hiện của nhân cách ra bên ngoài thông qua cảm xúc, cũng như dùng trí tuệ để phân tích, tổng hợp vấn đề, trên cơ sở đó điều tiết cảm xúc của mình (P.Salovey, J.Mayer-1994; G.G.Gorskova-1999) [Dẫn theo 3, tr.21]. Như vậy, các cách tiếp cận trên đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về EI, từ đây sẽ làm nảy sinh các mô hình EI khác nhau. Nhìn chung, chúng ta có thể nhận thấy EI là một phẩm chất phức hợp, đa diện, đại diện cho những nhân tố khó thấy, khó nắm bắt như tự ý thức, tự nhận thức, tự tin, sự thấu cảm, tính tích cực hoạt động xã hội,... Về cơ bản, các tác giả nhất trí xem EI có liên quan đến những năng lực nhận biết và điều khiển các cảm xúc của mình và của người khác. Tiếp cận EI theo kiểu hỗn hợp đã khái quát nhiều hơn những ý nghĩa của các từ xúc cảm, và việc sử dụng thuật ngữ “trí tuệ” để mô tả tất cả các biến thể của sự nỗ lực của con người đạt được thành công không phải từ năng lực tâm lý, không phải là cái gì mới. Nghiên cứu EI dưới góc độ thuần năng lực, P.Salovey và J.Mayer đã cố gắng tách biệt EI ra khỏi các nét tính cách quan trọng của nhân cách, khu trú EI vào năng lực tâm lý và chỉ rõ nội dung cốt lõi của EI là sự tương tác giữa xúc cảm và tư duy. Điều này có nghĩa là những người được gọi là có EI cao phải có khả năng tiến hành xử lý thông tin xúc cảm một cách tinh tế. Cách tiếp cận của J.Mayer và P. Salovey cho thấy khi con người sử dụng các năng lực của bản thân để làm cho suy nghĩ của chính mình dễ dàng thì họ có thể học được cách điều chỉnh các cảm xúc. Đồng thời, hai ông xem xét EI một cách thận trọng và phần nào soi sáng được biên giới giữa trí thông minh nhận thức và phẩm chất phi trí tuệ. Nhờ vậy, hai ông đã chỉ ra và phân tích được mức độ EI tham gia vào quá trình điều khiển hành vi và góp phần vào sự thành công của cá nhân. Hai ông khẳng định rằng: một định nghĩa giống như của Goleman đã tập trung quá nhiều vào những đặc tính động cơ hóa của các trạng thái xúc cảm và quá ít chú ý đến các cảm xúc. 18 Trên cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các cách tiếp cận trí tuệ cảm xúc. Tác giả chọn quan điểm trí tuệ cảm xúc theo kiểu thuần năng lực của J. Mayer và P. Salovey(1997) làm cơ sở lý luận định hướng nghiên cứu của đề tài: “ Trí tuệ cảm xúc là năng lực nhận biết và bày tỏ xúc cảm, hòa xúc cảm vào suy nghĩ, hiểu và suy luận với xúc cảm, điều khiển, quản lý xúc cảm của mình và của người khác”. * Những nét đặc trưng của trí tuệ cảm xúc Trí tuệ cảm xúc là một cấu trúc phức hợp của nhiều năng lực khác nhau liên quan đến lĩnh vực cảm xúc. Trí tuệ cảm xúc là tổ hợp những năng lực về cảm xúc của bản thân. Tổ hợp đó bao gồm nhiều năng lực cụ thể khác nhau chẳng hạn: năng lực hiểu biết cảm xúc của bản thân, năng lực điều khiển, điều chỉnh cảm xúc của bản thân cho phù hợp với hoàn cảnh xung quanh. Các năng lực này đóng vai trò quyết định trong việc một người có thể học các kỹ năng cần thiết để thành công trong công việc và cuộc sống. Trí tuệ cảm xúc mang bản chất xã hội lịch sử, EI được hình thành trong quá trình cá nhân tham gia vào các dạng hoạt động như học tập, lao động, hoạt động xã hội... và chịu sự chế ước to lớn của môi trường giáo dục, môi trường xã hội. Trí tuệ cảm xúc là loại trí tuệ rộng hơn trí thông minh, dễ thay đổi hơn và biên độ thay đổi rộng hơn. Trái với quan niệm truyền thống, những phát hiện gần đây trong tâm lý học và những thực tế nghịch lý cho thấy IQ, bằng cấp và các kỳ thi không cho phép tiên đoán một cách chắc chắn sự thành công trong tương lai của con người. Vài thập niên gần đây, nhiều nhà tâm lý học cho rằng, IQ chỉ là vùng hẹp của những năng lực ngôn ngữ và toán học, khả năng dự đoán của các kết quả trắc nghiệm trí thông minh tốt cũng sẽ không cao và ít quan trọng hơn khi rời khỏi lĩnh vực trường học. Nhiều nhà nghiên cứu đưa ra nhận định rằng: “Sự tương quan giữa chỉ số IQ và thành tựu đạt được trong công việc, tỷ lệ này dự kiến đạt mức cao nhất chỉ vào khoảng 25% [Dẫn theo 8, tr.48]. H.Gardner chỉ rõ rằng: “Trong tuyệt đại đa số trường hợp, vị trí chắc chắn mà cá nhân có được trong xã hội được quy định bởi những nhân tố khác”. Nhân tố ấy chính là EI như là năng lực thúc đẩy hay kiên trì trong khó khăn, làm chủ những xung năng của mình và nhẫn nại chờ đợi sự thỏa mãn ham muốn, khả năng điều hòa tâm lý và không để suy nghĩ của mình bị sự buồn rầu chi phối khả năng đồng cảm và hy vọng [Dẫn theo 48, tr.71]. EI có thể cho phép tiên đoán chính xác sự thành công trên đường đời của mỗi người. EI hướng dẫn sự lựa chọn sáng suốt, mang 19 màu sắc lý tính trong những tình huống khác nhau, chúng hoạt động ăn khớp với tinh thần lý trí, cho phép hoặc ngăn cấm hoạt động lý trí. Không giống như IQ vốn thay đổi rất ít sau khi chúng ta trưởng thành, EI là khả năng có thể tự học hỏi được và ngày càng sắc sảo hơn trong quá trình sống, tức là được tích lũy dần từ kinh nghiệm của chúng ta. H.Gardner khẳng định rằng: “Người ta đều thông minh nhiều hay ít hơn, họ vốn sinh ra là thế và ở đây chẳng thay đổi được gì”[Dẫn theo 48, tr.77]. Cách nhìn này tương đồng với một số quan niệm cho rằng IQ hoàn toàn không thể thay đổi được bằng kinh nghiệm hay giáo dục. Như vậy, EI dễ thay đổi và có biên độ thay đổi lớn. EI có thể được dạy bởi giáo viên, gia đình,... Điều này mở ra khả năng cho việc rèn luyện, giáo dục EI cho mọi người. Thực tế cho thấy rằng, trong 2 năm sau khi xuất bản cuốn sách của D.Goleman có hơn 700 trường học tiến hành chương trình học tập xúc cảm xã hội (SEL- Social Emotional Learning) được thiết kế để dạy học sinh những kỹ năng xúc cảm xã hội. Chương trình SEL tập trung vào khả năng nhận thức xúc cảm, kỹ năng xã hội và trí tuệ cá nhân khi giải quyết vấn đề (Cohen 2001) [Dẫn theo 6]. Trí tuệ cảm xúc là một dạng siêu năng lực hay siêu trí tuệ. Trí tuệ hàn lâm không chuẩn bị cho con người đủ sức đương đầu với những thử thách, cơ hội và biến đổi không ngừng của cuộc sống. Ngay cả chỉ số IQ cao cũng không đảm bảo cho sự thành công, thịnh vượng và hạnh phúc nếu không có những nét tính cách phù hợp, những xúc cảm thông minh. Đời sống xúc cảm là một lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp mà con người có thể chứng tỏ những năng lực của mình và đòi hỏi vốn hiểu biết nhất định. Sự thành thạo, khéo léo của con người về EI là nguyên nhân tạo thành công cho người nào đó, trong khi người khác có trí thông minh tương đương nhưng có EI kém lại thất bại. EI thực sự là loại siêu trí tuệ, siêu năng lực vì nó quyết định việc chúng ta có thể khai thác thế mạnh của mình, kể cả lợi thế về IQ hay không. Thực tế cho thấy, những người hiểu biết tình cảm, nắm được và làm chủ chúng, đoán được những xúc cảm của người khác và hòa hợp với xúc cảm ấy một cách hữu hiệu thì luôn có lợi thế trong nhiều lĩnh vực. Ngược lại, những người không kiểm soát được đời sống xúc cảm của mình thường chịu xung đột nội tâm, mất năng lực tập trung và suy nghĩ thiếu sáng suốt. Điều này chứng tỏ người có EI cao thường nhanh nhẹn nắm bắt thời cơ để đạt lấy thành công và hạnh phúc. * Các mặt biểu hiện của trí tuệ cảm xúc Mô hình EI thuần năng lực của Mayer và Salovey bao gồm bốn nhóm năng lực: nhận thức, bày tỏ xúc cảm; xúc cảm hòa vào ý nghĩ; hiểu biết xúc cảm và điều khiển, kiểm soát xúc cảm. Bốn nhóm năng lực này là biểu hiện cần có ở một người có EI. 20 - Nhận thức và bày tỏ xúc cảm Nhận thức xúc cảm là nhận dạng, nhận biết được xúc cảm của mình, của người khác hay môi trường xã hội nói chung và sự ảnh hưởng của xúc cảm như thế nào đến hiệu quả công việc. Điều này có nghĩa con người phải nhận biết được thời điểm xuất hiện và nguyên nhân của xúc cảm, nhận biết được mối liên hệ giữa tình cảm và suy nghĩ, giữa lời nói và việc làm,... của bản thân và của người khác. Nhận thức xúc cảm này có thể thông qua các con đường như: các tác phẩm nghệ thuật, ngôn ngữ, hành vi, nét mặt,... và vô số những tín hiệu khác từ cơ thể. Điều quan trọng trong nhận thức xúc cảm là phải nhận ra được sự khác biệt giữa những biểu lộ xúc cảm có thật và biểu lộ xúc cảm một cách miễn cưỡng, giả tạo. Nhận biết xúc cảm là thành phần cơ bản của EI bởi lẽ không gọi được tên các cảm xúc, không nhận biết đúng bản chất của nó thì sẽ không phân biệt được một cách chính xác một cảm xúc này với một cảm xúc khác. Do đó, những kỹ năng khác nếu có được cũng không đem lại lợi ích gì. Chẳng hạn làm sao bạn điều khiển và kiểm soát được những xúc cảm của mình nếu bạn không biết mình phải điều khiển hay kiểm soát cái gì?[34, tr.17]. Xúc cảm là một loại thông điệp phản ánh thái độ, tình cảm, suy nghĩ, trạng thái sinh lý và tâm lý của mình và của người khác cho chính bản thân và đối tượng giao tiếp biết được. Điều này cho phép chúng ta thấu hiểu hơn về những nhu cầu, nguyện vọng,...đã được thỏa mãn hay chưa. Sự nhận thức như thế sẽ dẫn đường cho sự điều chỉnh, kiểm soát những xúc cảm, hành vi nhằm giúp cá nhân thành công trong công việc và trong mối quan hệ với mọi người xung quanh. Nhận thức xúc cảm khơi nguồn bằng sự hòa hợp với dòng cảm xúc, sự hòa hợp này luôn tồn tại trong mỗi chúng ta. Dòng cảm xúc của chúng ta luôn tồn tại song song một cách hoàn hảo với dòng suy nghĩ của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta hiếm khi quan tâm, chú ý hay chịu dừng lại để tập trung quan sát những cảm xúc nên thường cảm nhận được chúng một cách mờ nhạt trước khi chúng ta phát triển mạnh mẽ. Socrate nói rằng: “Hãy tự biết mình”, điều này có nghĩa rằng cá nhân muốn nhận biết và thấu hiểu được người khác thì trước hết cần nhận biết được cảm xúc của bản thân. Người có khả năng nhận biết cảm xúc có thể đọc các cảm xúc của mình và của người khác một cách rõ ràng, chính xác cũng như thể hiện, biểu lộ những cảm xúc một cách hợp lý về mặt xã hội.

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net