Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh thái bình hiện nay

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh thái bình hiện nay

2 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH THÁI BÌNH - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ 11 THỰC TIỄN 1.1. Lý luận chung về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và 11 nhỏ 1.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình 32 Chương 2 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH 53 THÁI BÌNH HIỆN NAY 2.1. Quan điểm cơ bản nâng cao năng lực cạnh tranh của 53 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình 2.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình 63 trong thời gian tới KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 92 PHỤ LỤC 96 MỞ ĐẦU 3 1. Tính cấp thiết của đề tài Cạnh tranh là một thuộc tính vốn có, khách quan của kinh tế hàng hoá. Nó có vai trò to lớn, là động lực thúc đẩy nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp phát triển; đồng thời cạnh tranh cũng làm cho nền kinh tế bất ổn định vì khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát và làm cho các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh kém dễ bị phá sản. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế với đặc trưng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh đang là xu hướng lớn, nó đòi hỏi mọi quốc gia dân tộc muốn tồn tại phát triển tất yếu phải tham gia sâu rộng vào quá trình vừa hợp tác vừa cạnh tranh khốc liệt đó. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là vấn đề sống còn đối với mỗi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thái Bình là một tỉnh ven biển, thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của khu tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc là: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Điều đó đã cho phép Thái Bình thu hút nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tiến hành sản xuất - kinh doanh. Đến nay, hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Bình bước đầu đã thể hiện được năng lực cạnh tranh, khẳng định được vị thế, thương hiệu của mình, có thị phần cả ở trong và ngoài nước; đã tạo nên những chuyển biến đáng kể trong phát huy và khai thác các tiềm năng thế mạnh, các nguồn nội lực và ngoại lực. Các loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng về cả số và chất lượng; một số doanh nghiệp đã phát huy tốt năng lực cạnh tranh, sản xuất - kinh doanh có hiệu quả góp phần tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận dân cư; đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng, phát triển kinh tế chung của tỉnh; góp phần thực hiện các mục tiêu xoá đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện 4 đại hoá đất nước vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, hiện nay trên địa bàn tỉnh cũng còn một bộ phận doanh nghiệp vừa và nhỏ đang đứng trước những nguy cơ, thách thức rất gay gắt như: sản xuất - kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả, năng lực tài chính có hạn, khả năng chiếm lĩnh thị trường thấp, trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, có không ít doanh nghiệp đang đứng bên bờ của sự phá sản. Tình trạng đó là do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản chính là do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của tỉnh hiện nay còn thấp. Vấn đề đặt ra là, cần phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp tục phát triển, trong đó nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem là giải pháp cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là giải pháp mang tính cấp bách để các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình vượt qua khó khăn, thách thức đang đặt ra hiện nay. Với ý nghĩa đó, tác giả lựa chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình hiện nay ” để làm luận văn thạc sỹ Kinh tế chính trị. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Xung quanh vấn đề phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam nói chung và ở Thái Bình nói riêng trong điều kiện hiện nay là vấn đề thời sự nóng bỏng và có tầm chiến lược hệ trọng, được Đảng, Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý và nhà khoa học quan tâm nghiên cứu giải quyết. Với quan điểm thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật, đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cả về lý luận và thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngày 20 tháng 6 năm 1998, Chính phủ có công văn số 681/ CP - KTN về định hướng chiến lược và chính sách phát triển các doanh 5 nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, làm cơ sở để thực hiện các biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp sau này. Văn bản có giá trị pháp lý cao nhất áp dụng riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nghị định số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; nghị định xác định rõ khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam và khung pháp luật về hỗ trợ các doanh nghiệp này bao gồm các chính sách trợ giúp với các biện pháp về tài chính, tín dụng; cơ quan trợ giúp; tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất kinh doanh. Dưới góc độ nghiên cứu, cho đến nay, đã có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và công bố các công trình nghiên cứu của mình về doanh nghiệp vừa và nhỏ: “Chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” của tập thể tác giả: Nguyễn Cúc, Hồ Vĩnh Thắng, Đặng Ngọc Lợi, Nguyễn Hữu Thắng (Nxb Chính trị Quốc gia năm 2003). Tập thể các tác giả đã đưa ra tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ; phân tích đặc điểm, tiềm năng, lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam; chỉ ra kinh nghiệm của các nước trong việc hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ; xác định một số quan điểm hỗ trợ, tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là hình thành các khung khổ pháp lý, đổi mới hệ thống chính sách liên quan, hình thành các cơ quan quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. “Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tập thể tác giả: Tiến sỹ Lê Xuân Bá, Tiến sỹ Trần Kim Hào, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Thắng (Nxb chính trị quốc gia 2005). Các tác giả đã đi thẳng vào phân tích những tác động, cơ hội, thách thức và yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; phân tích tình hình phát triển, thực trạng kinh doanh của doanh 6 nghiệp vừa và nhỏ đồng thời nêu ra những quan điểm và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm tới. Đề tài “Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xây dựng lực lượng dự bị, động viên trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”của tác giả Ngọ Văn Duy, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2005. Tác giả đưa ra quan niệm và chỉ rõ ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta như: dễ thích ứng với công nghệ mới; sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào của sản xuất; thu hút được nhiều lao động, việc làm và nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội... Đồng thời, tác giả đã đưa ra quan điểm và các nhóm giải pháp nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với xây dựng lực lượng dự bị, động viên trên địa bàn tỉnh. Đề tài: Tác động của phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đến xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh Bắc Ninh hiện nay của tác giả Nguyễn Xuân Quý, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2007. Trong đó, tác giả tập trung bàn đến vấn đề phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Bắc Ninh và tác động của phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh đến xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh trong thời gian tái lập tỉnh từ năm 1997 đến nay. Theo tác giả, trong thời gian qua ở Bắc Ninh sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế và ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng, chính quyền, vào chủ nghĩa xã hội; tăng cường về mọi mặt cho xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh vững chắc. Tuy nhiên, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh trong điều kiện kinh tế thị trường với những yếu kém về quản lý và cơ chế chính sách chưa phù hợp đã có tác động tiêu cực đến việc huy động kinh tế, lực lượng; khó khăn trong việc quản lý an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của khu vực phòng thủ tỉnh. Tác giả đã đưa ra hệ thống nhóm 7 giải pháp góp phần đẩy mạnh quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với tăng cường, củng cố sức mạnh cho khu vực phòng thủ tỉnh. “Vị trí chiến lược của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự phát triển kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam” của Nguyễn Công Tạn đăng trên tạp chí Kinh tế và Phát triển số 67 tháng 01/2003. Tác giả đã đề cập đến những điều kiện cần và đủ cho sự ra đời của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên cơ sở những lợi thế như tính năng động và khả năng thích ứng cao; tinh thần tự lực, tự cường cao, không dựa dẫm ỷ lại vào Nhà nước nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã có nhiều đóng góp quan trọng như việc thu hút đáng kể nguồn vốn trong xã hội, thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm cho khu vực nông thôn, nâng cao thu nhập cho nông dân nông thôn. Mặt khác, tác giả đã chỉ ra những yếu kém khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi phải có sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà nước như vốn kinh doanh của từng doanh nghiệp rất nhỏ, khả năng tiếp cận vốn tín dụng rất khó khăn, cách quản lý ở nhiều doanh nghiệp chưa khoa học. Xung quanh nghiên cứu vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp có các công trình đã được nghiên cứu và công bố như: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hoá”của tác giả Trần Sửu (Nhà xuất bản Lao động 2006). Tác giả đã phân tích, đề cập đến cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hoá và các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chỉ rõ các yếu tố cấu thành và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp Việt Nam, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hoá. Đề tài: Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của nó đến củng cố quốc phòng ở Việt Nam hiện nay của tác giả Đỗ Huy Hà, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện 8 Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2004. Trong đó, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về cạnh tranh, sức cạnh tranh và sự cần thiết nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; chỉ ra những tác động tích cực của nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đến sự nghiệp quốc phòng. Đồng thời, tác giả đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế gắn với tăng cường củng cố quốc phòng. Đề tài: Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà Nước ở Đồng Nai và tác động của nó đến bảo đảm kinh tế cho khu vực phòng thủ tỉnh của tác giả Vũ Đại Dương, luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, 2007. Trong đó, tác giả tập trung phân tích cơ sở lý luận về nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước ở Đồng Nai; đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Nhà nước ở Đồng Nai gắn với bảo đảm kinh tế cho khu vực phòng thủ tỉnh ở Đồng Nai hiện nay. “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà nội”của PGS.TS. Phạm Quang Trung đăng trên Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 129 năm 2008. Tác giả phân tích và luận giải những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên địa bàn như: Vấn đề khó khăn về vốn và sự hạn chế trong tiếp cận các nguồn tài chính; nhiều doanh nghiệp trong nhận thức chưa rõ ràng, còn mơ hồ về xây dựng và phát triển thương hiệu, chưa có chiến lược Marketing để chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước; đội ngũ cán bộ và đội ngũ công nhân lành nghề trong nhiều doanh nghiệp còn yếu và thiếu; trình độ máy móc, thiết bị, công nghệ rất lạc hậu nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Từ đó, tác giả đề ra các giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn như: đa dạng hoá các kênh tài 9 chính; nâng cao vốn điều lệ của doanh nghiệp; phát triển thương hiệu; xây dựng và phát triển hệ thống phân phối, thúc đẩy đầu tư phát triển công nghệ. Các công trình trên đã tiếp cận nghiên cứu vị trí, vai trò và năng lực cạnh tranh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, mang tính tổng quan, tầm quốc gia, cạnh tranh ngành trên bình diện chung của nền kinh tế quốc dân hay ở một số địa phương khác. Đó là những thông tin, tư liệu quí mà tác giả có thể kế thừa cho công trình nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu dưới góc độ kinh tế - chính trị về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái bình. Do vậy, đề tài nghiên cứu mà tác giả lựa chọn là một cách tiếp cận mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với Thái Bình nói riêng, cả nước nói chung, song không trùng lặp với các công trình đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích Luận giải một số vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cơ sở để phân tích đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình. Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh Thái Bình trong thời gian tới. * Nhiệm vụ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phân tích thực trạng nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Bình trong thời gian qua. Đề xuất quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Bình trong thời gian tới. 10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. * Phạm vi nghiên cứu: Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình thời gian từ năm 2004 trở lại đây. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm kinh tế, an ninh - quốc phòng của Đảng và Nhà nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình, những chủ trương giải pháp của tỉnh về những vấn đề có liên quan đến nội dung của luận văn. Luận văn dựa vào nguyên lý cơ bản của phép duy vật - lịch sử, sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp liên kết, kết hợp lô gích với lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đồng thời có kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến luận văn, trao đổi với một số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Thái Bình và xin ý kiến chuyên gia. 6. Ý nghĩa của luận văn Sự thành công của luận văn sẽ góp phần nâng cao và làm phong phú hơn nhận thức về vấn đề cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình. Dựng lên bức tranh tổng thể về thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình. Bước đầu đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Thái Bình thời gian tới. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho nghiên cứu, giảng dạy và trong hoạch định chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là đối với địa phương Thái Bình. 7. Kết cấu của luận văn 11 Gồm phần mở đầu, 2 chương, (4 tiết) kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục. Chương 1 NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở TỈNH THÁI BÌNH – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Lý luận chung về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1.1. Quan niệm về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân theo những quy luật khách quan riêng của mình, trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh kinh tế xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Bàn về cạnh tranh kinh tế, các học thuyết kinh tế dù thuộc trường phái nào cũng đều thừa nhận rằng cạnh tranh chỉ thực sự gay gắt trong nền kinh tế thị trường, nơi mà một nền kinh tế hàng hoá đã phát triển ở trình độ cao. Do 12 cách tiếp cận và mục đích khác nhau nên đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh. Trường phái kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh cho rằng: Cạnh tranh là quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành viên tham gia trên thị trường một địa vị nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một phần thưởng xứng đáng với khả năng của mình. Với ý nghĩa này, cạnh tranh ở đây chủ yếu là cạnh tranh về giá cả. Theo nhà kinh tế cổ điển A.Smith: “Các chủ thể kinh tế hay con người kinh tế chỉ có thể mang lại lợi ích lớn nhất cho xã hội khi họ được hoạt động một cách tự do theo những mục đích riêng của mình. Tuy nhiên, những hành vi của con người kinh tế luôn chịu sự điều tiết, chi phối, dẫn dắt của bàn tay vô hình, hoạt động đó chỉ có hiệu quả khi không bị cản trở từ phía các lực lượng bên ngoài như nhà nước” [3, tr.14]. Như vậy, A.Smith không trực tiếp nêu ra khái niệm cạnh tranh nhưng đã hiểu cạnh tranh là cơ chế hoạt động mà các chủ thể kinh tế phải tuân theo các quy luật khách quan của thị trường. Khác với A.Smith, nhà kinh tế học A.Marshall khi đề cập đến cạnh tranh thì cho rằng: “Cạnh tranh là hiện tượng mà một người này ganh đua với một người khác, đặc biệt là khi bán hoặc mua một thứ gì đó, đồng thời thuật ngữ cạnh tranh gắn liền với cái xấu, nó được hiểu là một phần đáng kể của sự ích kỷ và sự dửng dưng đối với phúc lợi của những người khác” [19, tr.136]. Bàn về cạnh tranh, trong “Lược khảo phê phán khoa kinh tế chính trị”, Ph.Ăng Ghen viết: “Cạnh tranh đã thâm nhập vào tất cả các quan hệ sinh hoạt của chúng ta và đã hoàn tất cái tình trạng nô dịch lẫn nhau mà hiện nay người ta đang ở trong đó. Cạnh tranh là một bộ máy mạnh mẽ luôn thúc đẩy trật tự xã hội đang già cỗi và ọp ẹp của chúng ta hoạt động...” [16, tr.132]. Trong học thuyết kinh tế của mình, C.Mác cũng đã đề cập đến cạnh tranh trong chủ nghĩa tư bản với hai hình thức cạnh tranh là cạnh tranh trong 13 nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành sẽ dẫn đến kết quả hình thành giá trị thị trường hay giá trị xã hội của hàng hoá. Còn cạnh tranh giữa các ngành khác nhau sẽ dẫn đến hình thành lợi nhuận bình quân, do đó dẫn đến sự chuyển hoá giá trị hàng hoá thành giá cả sản xuất. Về ý nghĩa tích cực của cạnh tranh, C.Mác đã tái hiện tư tưởng của A.Smith là “nó có ảnh hưởng tốt đến cả việc nâng cao tiền công lẫn việc giảm giá hàng hoá, có lợi cho công chúng tiêu dùng” [16, tr.161]. “Vì cạnh tranh, xét về mặt lịch sử, ở trong nước biểu hiện ra là sự thủ tiêu phương thức cưỡng bức kiểu phường hội, phương thức điều tiết bằng Nhà nước, chế độ thuế quan nội địa... còn trên thị trường thế giới thì cạnh tranh biểu hiện ra là sự xoá bỏ chế độ thuế quan cấm vận hoặc thuế quan bảo hộ...” [18, tr.266]. Theo C.Mác, cạnh tranh trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đã có vai trò kích thích cải tiến kỹ thuật, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển... và nó còn tác động đến sự phân chia giá trị thặng dư, phân chia lợi ích giữa các nhà tư bản. Sau C.Mác, khi nghiên cứu Chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn Chủ nghĩa tư bản độc quyền và nấc thang cao hơn của nó là Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, V.I. Lênin xác định độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nhưng không thủ tiêu cạnh tranh mà trái lại còn làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn. Người chỉ ra bên cạnh những hình thức cạnh tranh của giai đoạn Chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, giai đoạn này còn xuất hiện những hình thức cạnh tranh mới. Cạnh tranh diễn ra trong nội bộ tổ chức độc quyền; giữa các tổ chức độc quyền, giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc quyền và giữa các xí nghiệp ngoài độc quyền với nhau. Và cạnh tranh còn diễn ra giữa các cường quốc tư bản với nhau trên phạm vi quốc tế. Như vậy, trong giai đoạn Chủ nghĩa tư bản độc quyền và độc quyền nhà nước, các hình thức cạnh tranh phong phú hơn, xảy ra quyết liệt hơn và bắt đầu có tính không thuần tuý. 14 Như vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất, quan niệm cạnh tranh của các nhà kinh tế chính trị học từ cổ điển đến giai đoạn C.Mác cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện. Đó là những thành quả nhận thức khoa học của nhân loại, đồng thời đánh dấu những bước phát triển lý luận về cạnh tranh. Sau giai đoạn C.Mác và Ph.Ăng Ghen, cùng với sự hình thành của nền kinh tế thị trường hiện đại, quan niệm về cạnh tranh tiếp tục được các nhà kinh tế học bàn luận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong đại từ điển kinh tế thị trường định nghĩa: “Cạnh tranh hữu hiệu là một phương thức thích ứng với thị trường của xí nghiệp, mà mục đích là giành được hiệu quả hoạt động thị trường làm cho người ta tương đối thoả mãn nhằm đạt được lợi nhuận bình quân vừa đủ để có lợi cho việc kinh doanh bình thường và thù lao cho những rủi ro trong đầu tư, đồng thời hoạt động của đơn vị sản xuất cũng đạt được hiệu suất cao, không có hiện tượng dư thừa về khả năng sản xuất trong một thời gian dài, tính chất sản phẩm đạt trình độ hợp lý” [49, tr.247]. Từ điển kinh tế chính trị học định nghĩa: “cạnh tranh là cuộc đấu tranh có tính chất đối kháng giữa những người sản xuất hàng hoá tư nhân nhằm giành các điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Cạnh tranh là lực lượng cưỡng bức bên ngoài, buộc những người sản xuất hàng hoá tư nhân phải tăng năng suất lao động trong các xí nghiệp của họ, phải mở rộng sản xuất, tăng tích luỹ” [48, tr.23]. Còn theo PGS. TS. Lê Hồng Tiệm: “ Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa các chủ thể sản xuất - kinh doanh nhằm giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất trong sản xuất ra sản phẩm, trong tiêu thụ hàng hoá, trong hoạt động dịch vụ để đảm bảo thực hiện lợi ích tốt nhất của mình” [38, tr.6]. Kế thừa những giá trị tích cực trong quan niệm về cạnh tranh dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, khái niệm cạnh tranh có thể hiểu như sau: cạnh tranh là quan hệ kinh tế diễn ra 15 trong một môi trường kinh tế xã hội nhất định mà ở đó các chủ thể kinh tế đấu tranh, ganh đua nhau bằng mọi biện pháp, thủ đoạn, nghệ thuật để giành giật các điều kiện, cơ hội có lợi cho mình như là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Như vậy, bản chất của cạnh tranh kinh tế, là mối quan hệ giữa người với người trong việc giải quyết lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, cạnh tranh không chỉ mang bản chất kinh tế. Trong việc giải quyết lợi ích kinh tế, các chủ thể kinh tế bộc lộ đạo đức kinh doanh, lương tâm nghề nghiệp, uy tín đối với người tiêu dùng, đối thủ cạnh tranh, đối với xã hội; có cam kết chất lượng minh bạch giữa doanh nghiệp và xã hội, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, bảo vệ môi trường cho nên cạnh tranh còn mang bản chất xã hội và luôn chịu sự chi phối bởi bản chất chế độ xã hội mà ở đó cạnh tranh diễn ra. Mặc dù, cạnh tranh có quy luật riêng của nó, song trong các môi trường kinh tế khác nhau; mục đích, tính chất và thủ đoạn của cạnh tranh và theo đó những hệ quả mà cạnh tranh mang lại cho xã hội là không giống nhau. Cạnh tranh (theo nghĩa lành mạnh, hợp pháp) có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. Nó buộc các chủ thể kinh tế phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, phát huy sáng kiến, tìm tòi cách thức quản lý hiệu quả nhất. Muốn thắng trong cạnh tranh, bán được nhiều hàng và thu nhiều lợi nhuận, các chủ thể kinh tế cần phải có sự năng động, nhạy bén, có khả năng dự đoán chính xác nhu cầu phát triển của ngành hàng, mặt hàng. Như vậy, cạnh tranh thực sự là một cuộc sàng lọc. Nó bình tuyển những người sản xuất, những doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, giá thành hợp lý và đào thải những chủ thể kinh tế yếu kém, những sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu khắt khe của cơ chế thị trường. Do đó, cạnh tranh trở thành động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Cạnh tranh đã kích thích các doanh nghiệp tìm tòi, áp 16 dụng các biện pháp trên thị trường (cả thị trường các yếu tố sản xuất và thị trường hàng hoá - dịch vụ), trong cả quá trình sản xuất nhằm tạo năng suất cao, khai thác sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực của nền kinh tế. Đồng thời, cạnh tranh còn buộc các doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn, sử dụng vốn và lao động một cách hiệu quả nhất. Cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng về chất lượng, mẫu mã, giá cả, chủng loại hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy, nền kinh tế sẽ có sản phẩm ngày càng nhiều hơn, với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, phong phú, đa dạng hơn. Cùng với sự hoạt động của các quy luật kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh đã điều tiết nền kinh tế một cách tự phát. Từ đó giúp các doanh nghiệp, nền kinh tế trả lời ba câu hỏi lớn: sản xuất cái gì ? sản xuất cho ai ? sản xuất như thế nào ? Có thể thấy rằng, cạnh tranh đã thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, và ở đâu không có cạnh tranh thì ở đó nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng trì trệ, độc quyền. Là quy luật kinh tế, cạnh trạnh có quan hệ mật thiết với quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ và các quy luật khác. Sự hoạt động của chúng đã mang đến cho nền kinh tế khả năng tự điều chỉnh để tìm điểm cân bằng một cách có hiệu quả nhất - Đây cũng chính là ưu thế lớn của cơ chế thị trường so với sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Tuy nhiên, “cạnh tranh hay thi đua kinh tế là nhằm mục đích lợi nhuận” [17, tr.225] nên cạnh tranh kinh tế bên cạnh tác động tích cực còn có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, xã hội. Vì chạy theo lợi nhuận trước mắt, muốn giảm thiểu các chi phí nên các chủ thể kinh tế có thể không quan tâm đến việc xử lý các chất thải công nghiệp gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài nguyên. Cạnh tranh còn làm phá sản những doanh nghiệp, những người sản xuất yếu kém, gặp rủi ro, không có điều kiện sản xuất tốt. Hệ quả là người lao động thất nghiệp hàng loạt, dẫn đến các vấn đề xã hội như sự phân hoá giàu 17 nghèo, vấn đề việc làm, tệ nạn xã hội, sự bất bình đẳng gây sức ép lớn cho xã hội. Mặt khác, các chủ thể kinh tế còn có thể sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh như: sản xuất hàng giả, gian lận thương mại, tung tin đồn thất thiệt, quảng cáo lừa dối khách hàng không chỉ gây nguy hại cho đối phương mà còn làm thiệt hại cho người tiêu dùng và cho cả nền kinh tế. Như vậy, cạnh tranh vừa bao hàm mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa là động lực tăng trưởng kinh tế, vừa dẫn tới xu hướng phá sản, độc quyền. Nhưng xét tổng thể tích cực của cạnh tranh vẫn là mặt chính và hết sức quan trọng đối với mọi nền kinh tế thị trường. Vì vậy có thể nói, cạnh tranh là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường, có kinh tế thị trường là có cạnh tranh. Thông qua sự cạnh tranh mà các doanh nghiệp tự hoàn thiện quá trình sản xuất kinh doanh của mình. Nền sản xuất hàng hoá trên thế giới ngày càng phát triển, thì cạnh tranh kinh tế cũng ngày càng phát triển. Những thành tựu mà nhân loại đạt được như ngày hôm nay có sự đóng góp to lớn của nhân tố cạnh tranh kinh tế với tư cách là một trong những động lực của sự phát triển. Khi nghiên cứu về cạnh tranh các nhà nghiên cứu còn sử dụng khái niệm sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh (trong thực tế sức cạnh tranh, năng lực cạnh tranh được sử dụng như là khái niệm đồng nghĩa). Tuy nhiên, đây là khái niệm phức hợp, phạm vi phản ánh của nó cũng rất đa dạng thuộc tầm vĩ mô, là năng lực hay sức cạnh tranh của nền kinh tế; ở tầm vi mô là sức cạnh tranh hay năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Trong các tài liệu hiện nay liên quan đến vấn đề này chưa có định nghĩa thống nhất về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, có thể nêu ra một số định nghĩa về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp như sau: 18 Theo Philip Lasser: “Năng lực cạnh tranh của công ty trong một lĩnh vực xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để có thể cạnh tranh thắng lợi” [33, tr.24]. Theo báo cáo về sức cạnh tranh (1995) của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cũng chỉ ra rằng: Năng lực cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp là khả năng của một công ty, một nước trong việc sản xuất ra của cải trên thị trường thế giới nhiều hơn đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp. Theo TS. Vũ Trọng Lâm: “ Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng tạo dựng, duy trì, sử dụng và sáng tạo mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng và đạt các mục tiêu của doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước và quốc tế” [14, tr.24- 25]. Theo TS. Nguyễn Hữu Thắng: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh trong việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra, mở rộng mạng lưới tiêu thụ, thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất nhằm đạt lợi ích kinh tế cao và bền vững” [34, tr.19]. Có thể nói, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Có quan điểm gắn năng lực cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa ra thị trường. Có quan điểm lại gắn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo thị phần mà nó chiếm giữ, có người lại đồng nghĩa năng lực cạnh tranh với hiệu quả của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu năng lực cạnh tranh chỉ là thực lực và lợi thế của bản thân doanh nghiệp thì chưa đủ bởi vì doanh nghiệp cạnh tranh có thắng lợi hay không lại bị tác động của rất nhiều nhân tố, trong đó có sự tác động của ngoại lực, của sự vay mượn tạm thời để duy trì vị trí của nó trên thị trường bằng rất nhiều cách khác nhau. Trong thực tế, có nhiều doanh nghiệp thực lực rất nhỏ nhưng vẫn duy trì được vị trí của nó trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh khác. Do vậy, nếu chỉ hiểu năng lực cạnh tranh của 19 doanh nghiệp là thực lực và lợi thế của doanh nghiệp sẽ làm giảm những suy nghĩ sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám huy động thực lực hoặc những lợi thế của doanh nghiệp khác vào việc duy trì vị trí của doanh nghiệp trên thị trường. Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, đồng thời kế thừa, phát triển các kết quả nghiên cứu, từ góc độ tiếp cận của luận văn, có thể định nghĩa: Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ là tổng thể nguồn nội lực và những thế mạnh mà doanh nghiệp có thể huy động được trong một thời gian nhất định để duy trì, cải thiện và nâng cao thứ hạng của doanh nghiệp so với các đối thủ trên thị trường nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp. Ở đây, cần có sự phân biệt năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mục đích cuối cùng của doanh nghiệp trong cạnh tranh là lợi nhuận, lợi ích kinh tế cũng có nghĩa là đảm bảo tính hiệu quả trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng có trường hợp doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả - tức là có lợi nhuận sau khi trừ chi phí nhưng không có năng lực cạnh tranh dài hạn nếu không duy trì được thị phần trước các đối thủ có tiềm lực tài chính hùng mạnh hoặc thực hiện hành vi bán phá giá. Hoặc có trường hợp doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh nhưng không đạt hiệu quả trong ngắn hạn nếu hành vi cạnh tranh đó nhằm chiếm lĩnh thị trường... Như vậy, hiệu quả kinh doanh phản ánh tương quan giữa kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra, còn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp lại được xem xét trong mối tương quan so sánh về tiềm năng, thực lực của nó với doanh nghiệp khác trên cùng một phạm vi thị trường trong một thời gian nhất định về một loại hàng hoá - dịch vụ mà không phân biệt loại hình doanh nghiệp. 1.1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ 20 * Quan niệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là hình thức tổ chức kinh tế tất yếu khách quan, có lịch sử phát triển và giá trị lâu dài trong từng quốc gia. Mục tiêu, điều kiện phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân biệt ở quy mô vốn, lao động sử dụng trong doanh nghiệp. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ - CP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã định nghĩa: doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập và đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. So với các doanh nghiệp lớn, quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có những ưu thế như: khả năng phát triển số lượng doanh nghiệp trong một thời gian ngắn là rất lớn; mức độ an toàn vốn đầu tư rất cao do chi phí thấp; độ linh hoạt trong kinh doanh cao do khả năng thay đổi nhanh nhạy phương án sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do quy mô đầu vào, đầu ra của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất nhỏ bé dẫn đến sự hợp tác đầu tư và phát triển hạn chế, khả năng cạnh tranh kém, khả năng xâm nhập, phát triển mở rộng quy mô thị trường, thị phần chưa nhiều, chưa thực hiện tốt các yêu cầu bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm... trong sản xuất các sản phẩm; khả năng điều chỉnh năng lực kinh tế, tài chính để vượt qua áp lực về giá cả, cạnh tranh trên thị trường còn nhiều hạn chế. Đứng trên góc nhìn của nền kinh tế và của doanh nghiệp thì cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Xét về ích lợi, cạnh tranh là động lực buộc doanh nghiệp phải nỗ lực tìm kiếm sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, phải tìm ra cách thức sản xuất có chi phí xã hội chấp nhận được, đồng thời là 21 cuộc đua tranh để tiến đến vị trí đứng đầu. Xét về thách thức, cạnh tranh là một áp lực mà doanh nghiệp nếu không có đủ sức mạnh vượt qua, thì sẽ phải gánh chịu các hậu quả không mong muốn như mất vị trí đầu tiên trên thị trường, hàng hoá ế đọng, thua lỗ, thậm chí có thể phá sản. Do đó, để đạt được vị thế cạnh tranh trên thị trường là yêu cầu sống còn của doanh nghiệp, nhất là trong thời kỳ tự do hoá thương mại trên thế giới hiện nay thì vị thế cạnh tranh tốt chính là điều kiện đầu tiên cho phép doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Thực tế cho thấy, những doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh mẽ là những doanh nghiệp biết phát huy, tạo dựng, duy trì, sử dụng linh hoạt các lợi thế cạnh tranh của mình, do đó, doanh nghiệp sẽ luôn vượt trước các đối thủ và luôn giành thắng lợi trong các cuộc cạnh tranh, đạt được mục đích đề ra, mở rộng thị phần, thu được lợi nhuận cao. Lợi thế cạnh tranh trước hết có thể dựa vào nguồn tài nguyên, điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, dựa vào đó, một địa phương, một doanh nghiệp có thể phát triển ngành công nghiệp, ngành dịch vụ tương thích, tạo ra sản phẩm và dịch vụ mang đậm nét độc đáo riêng mà nơi khác, doanh nghiệp khác không thể có và khó có thể theo kịp. Như vậy, về mặt lý thuyết, việc phát triển các lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ có sự khác biệt, nhưng trên thực tế điều này rất khác xa nhau, bởi do tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực, vị thế thị trường, cách ứng xử các mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khác nhau. Tuy nhiên, trong môi trường kinh doanh mở cửa, sự phát triển rộng khắp nhu cầu của mọi tầng lớp dân cư càng phức tạp, đa dạng đã tạo ra nhiều nhóm khách hàng có nhu cầu riêng biệt, tại chỗ, luôn biến động. Các doanh nghiệp lớn khó có thể đáp ứng được nhu cầu trên, mà chỉ có doanh nghiệp vừa và nhỏ với khả năng dễ chuyển đổi, tính năng động và linh hoạt cao là có thể phát huy được lợi thế của địa phương. Ưu thế này có thể dẫn đến chi phí thấp hơn hoặc

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net