Chuyển dịch cơ cấulao động nông nghiệp, nông thônvà tác động của nó đến củng cố quốc phòng nước ta hiện nay

đang tải dữ liệu....

Nội dung tài liệu: Chuyển dịch cơ cấulao động nông nghiệp, nông thônvà tác động của nó đến củng cố quốc phòng nước ta hiện nay

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau những năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn, nhưng nhìn chung tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Đặc biệt, bên cạnh những thành tích, tiến bộ đáng kể trong thực hiện chuyển dịch cơ cấu và tăng năng suất cây trồng, vật nuôi thì việc chuyển dịch cơ cấu lao động (CDCCLĐ) nông nghiệp, nông thôn nước ta đang diễn ra chậm chạp, kém hiệu quả và còn mang tính tự phát. Thực trạng này đã và đang gây tác động tiêu cực tới sự phát triển ổn định, bền vững của nền nông nghiệp nước nhà, đến sự nghiệp CNH, HĐH và yêu cầu của nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang tập trung mọi nỗ lực đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, củng cố quốc phòng...trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển kinh tế tri thức đang đặt ra những vấn đề hết sức mới mẻ đối với quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn, trong đó phấn đấu thực hiện mục tiêu quan trọng được xác định trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010” là: giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp nước ta xuống còn khoảng 50% vào năm 2010 và đến năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng, quyết định sự thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Vì vậy việc nghiên cứu làm rõ những vấn đề cơ bản của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn nước ta; đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đồng thời với củng cố quốc phòng đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến củng cố quốc phòng nước ta hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đã có một số công trình nghiên cứu của cá nhân, tập thể đề cập đến, nhưng mới chỉ giới hạn trong phạm vi, đối tượng, địa bàn nhất định như: - Lê Du Phong, Nguyễn Thành Độ: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CDCCKT) trong điều kiện hội nhập với khu vực và thế giới. - Nguyễn Đình Huệ: CDCCLĐ trên địa bàn Hà Tĩnh và tác động của nó đến đảm bảo nguồn nhân lực cho khu vực phòng thủ tỉnh trong giai đoạn hiện nay. - Trần Thị Ngọc Lan: Vấn đề phân công lại lao động xã hội trong quá trình CDCCKT ở tỉnh Tiền Giang. - Vũ Văn Long, Xây dựng cơ cấu kinh tế (CCKT) mới và vai trò của nó đối với củng cố quốc phòng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam. - Lê Đình Thắng: CDCCKT nông thôn, những vấn đề lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đề cập một cách tương đối đầy đủ và toàn diện tác động của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đến củng cố quốc phòng; đề xuất những quan điểm, giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đồng thời với củng cố quốc phòng. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và giới hạn nghiên cứu của luận án *Mục đích của luận án: Trên cơ sở phân tích một số vấn đề cơ bản quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn và những tác động của quá trình đó tới củng cố quốc phòng, luận án đóng góp về mặt lý luận sao cho mỗi bước đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đồng thời sẽ là một bước củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng đất nước trong tình hình mới. Để thực hiện mục đích đó, luận án có nhiệm vụ: - Làm rõ về mặt lý luận, thực tiễn những vấn đề cơ bản của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn. - Làm rõ tác động của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đến củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng. - Đề xuất một số quan điểm chỉ đạo và các giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đồng thời với củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng. * Đối tượng và giới hạn nghiên cứu: Luận án lấy việc luận giải cơ sở khoa học của CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn và tác động của nó đến củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng đất nước làm đối tượng nghiên cứu. CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn trong quá trình CNH, HĐH có phạm vi rất rộng, bao gồm cả khu vực đồng bằng, trung du, miền núi, vùng ven biển, hải đảo...nên phạm vi khảo sát, phân tích của luận án phải vừa bảo đảm tính toàn diện, vừa tập trung vào những lĩnh vực, những vùng, những địa phương có tính chất điển hình để có thể đưa ra được những đánh giá, kết luận chính xác, khoa học. Về thời gian, giới hạn khảo sát của luận án từ năm 1986, trọng tâm từ năm 1996 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án Đề tài nghiên cứu được trên cơ sở lý luận, phương pháp luận, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chính trị, kinh tế quân sự, học thuyết bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh quân đội; đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; chỉ thị, nghị quyết của Bộ quốc phòng, các bộ, các ngành và một số công trình nghiên cứu của các tác giả đi trước có liên quan đến luận án. Đồng thời tiến hành khảo sát, điều tra, nghiên cứu thực tiễn ở một số địa phương, đơn vị. Cùng với việc sử dụng các phương pháp chung nghiên cứu các môn khoa học xã hội nhân văn như: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử...đề tài chú trọng sử dụng các phương pháp đang được sử dụng trong khoa học kinh tế: trìu tượng hoá, lịch sử, lôgic, phân tích, tổng hợp, thống kê và một số phương pháp khác. 5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án - Làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn nước ta. - Phân tích tác động thuận chiều và không thuận chiều của quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đến nền quốc phòng của đất nước. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn đồng thời với củng cố tiềm lực và thế trận quốc phòng. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Những nghiên cứu và kết luận của luận án có thể sẽ góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp, các ngành và mọi công dân đối với sự nghiệp củng cố nền QPTD vững mạnh trong điều kiện CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn theo định hướng XHCN. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy môn kinh tế chính trị và kinh tế quân sự trong các nhà trường quân đội. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: mở đầu, 3 chương, 6 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH ĐÓ ĐẾN CỦNG CỐ QUỐC PHÒNG 1.1. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1. 1. Cơ cấu lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn 1.1.1.1. Lao động nông nghiệp, nông thôn và cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn Lao động sản xuất vật chất là quá trình con người vận dụng sức lao động của mình kết hợp với những tư liệu lao động theo những phương pháp và cách thức nhất định để tác động vào đối tượng lao động, tạo ra các sản phẩm. Sức lao động ở đây không phải và không thể tách biệt, cá lẻ mà mang tính xã hội, là lực lượng lao động xã hội. Nó bao gồm nhiều người tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội, họ có trình độ, chuyên môn nghề nghiệp, sức khoẻ, năng khiếu, sở trường, ý chí, kinh nghiệm, độ tuổi...khác nhau hợp thành. Trong một nền kinh tế, theo cơ cấu ngành kinh tế lực lượng lao động xã hội thường được phân ra thành: lao động nông nghiệp; lao động công nghiệp và lao động dịch vụ. Lao động nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận của lực lượng lao động xã hội, có đủ độ tuổi theo quy định của Luật Lao động hiện hành của mỗi quốc gia (với Việt Nam là từ 15 đến 60 tuổi đối với nam và đến 55 đối với nữ), có khả năng lao động và hiện đang trực tiếp tham gia kinh doanh, sản xuất nông nghiệp; công nghiệp, xây dựng nông thôn và dịch vụ phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn. Trong mối tương quan về tỷ trọng với lao động công nghiệp, dịch vụ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì lao động nông nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng. Tức là gồm lao động nông, lâm, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Từng phân ngành lại được phân ra những ngành nghề nhỏ như: nông nghiệp có trồng trọt, chăn nuôi...; lâm nghiệp có trồng rừng, chăm sóc bảo vệ rừng, khai thác lâm sản...; ngư nghiệp có đánh bắt, khai thác hải sản. Ngoài ra, những lao động tham gia các hoạt động dịch vụ trực tiếp phục vụ cho nông nghiệp như: dịch vụ giống cây - con; dịch vụ phân bón và bảo vệ thực vật; dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư...cũng thuộc lực lượng lao động nông nghiệp. Lao động nông nghiệp còn được hiểu theo nghĩa hẹp khi so sánh với lao động lâm, ngư nghiệp. Theo đó, lao động nông nghiệp là lực lượng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và các loại hình dịch vụ phục vụ trực tiếp cho chăn nuôi và trồng trọt. Lao động nông thôn, bao gồm lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp, xây dựng ở nông thôn, các loại hình lao động dịch vụ phi nông nghiệp và lao động của các thành phần kinh tế khác trên địa bàn nông thôn. Lao động nông thôn là khái niệm thường dùng để so sánh với lực lượng lao động thành thị. Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là một số nước ở khu vực châu Á khi tiến hành CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn là thực hiện chủ trương “ly nông bất ly hương”, “ly điền bất ly hương”, giảm nhanh lực lượng lao động nông nghiệp bằng cách chuyển sang lĩnh vực công nghiệp, xây dựng nông thôn và dịch vụ phi nông nghiệp ngay trên địa bàn nông thôn. Chính vì vậy, những quốc gia này vừa thành công trong việc giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, vừa giảm được sức ép của việc lao động nông nghiệp ở các làng quê tràn về thành phố tìm kiếm việc làm. Lao động công nghiệp nông thôn bao gồm: lao động công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ, thu hút nhiều lao động như xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp khai thác mỏ, dệt may, da giày, cơ khí lắp ráp, sửa chữa...trên địa bàn nông thôn. Lao động dịch vụ phi nông nghiệp hoạt động trên nhiều lĩnh vực như: dịch vụ kỹ thuật, tín dụng, thương mại, đời sống... Cơ cấu lao động (CCLĐ) nông nghiệp, nông thôn: là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố, bộ phận cấu thành lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn; giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, những tương tác qua lại trong những không gian và điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể, phản ánh trình độ tổ chức, phân công lao động xã hội của nền kinh tế nói chung và của nông nghiệp, nông thôn nói riêng. CCLĐ nông nghiệp, nông thôn bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản sau: cơ cấu số lượng, cơ cấu độ tuổi, cơ cấu về giới, cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu vùng, lãnh thổ... Cơ cấu số lượng: Cơ cấu về số lượng của lực lượng lao động nông nghiệp thể hiện sự phân bổ lực lượng lao động nông nghiệp so với các ngành công nghiệp và dịch vụ của nền kinh tế. Hay nói một cách khác, cơ cấu số lượng thể hiện tỷ trọng lao động nông nghiệp so với tổng lao động xã hội và so với các ngành kinh tế khác của nền kinh tế. Lao động nông nghiệp nhiều hay ít so với lao động công nghiệp và dịch vụ là một trong những tiêu trí đánh gía trình độ phát triển kinh tế, trình độ phát triển của phân công lao động xã hội. Cơ cấu số lượng lao động nông thôn phản ánh sự phân bổ lực lượng lao động ở nông thôn (bao gồm lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp, xây dựng ở khu vực nông thôn và lao động dịch vụ phi nông nghiệp) so với lao động thành thị. Thông thường, khi kinh tế hàng hoá kém phát triển, lao động nông nghiệp sẽ chiếm tuyệt đại bộ phận lực lượng lao động xã hội. V.I. Lênin đã nhấn mạnh: “Nhân khẩu của một nước mà nền kinh tế hàng hoá ít phát triển (hoặc hoàn toàn không phát triển) thì hầu như hoàn toàn chỉ là nhân khẩu nông nghiệp; tuy nhiên điều đó...chỉ có nghĩa là dân cư làm nghề nông tự mình chế biến lấy nông sản, sự trao đổi và phân công hầu như không có. Vậy sự phát triển của kinh tế hàng hoá eo ipso (cũng do đó mà) có nghĩa là một bộ phận ngày càng đông dân cư tách khỏi nông nghiệp, tức là nhân khẩu công nghiệp tăng lên làm cho nhân khẩu nông nghiệp giảm xuống” [51, tr.25]. Cơ cấu độ tuổi: Độ tuổi của lao động nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào tỷ lệ sinh tự nhiên và việc hoạch định, tổ chức thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hoá gia đình của mỗi quốc gia. Hiện nay đang diễn ra một nghịch lý là: ở nhiều nước phát triển, mặc dù chính phủ có nhiều chính sách khuyến khích sinh đẻ nhưng dân số vẫn tăng chậm nên xuất hiện tình trạng “già hoá dân số”, lực lượng lao động có nguy cơ bị thiếu hụt; ngược lại ở nhiều quốc gia đang phát triển mặc dù chính phủ ban hành những chính sách tương đối cứng rắn nhưng nguy cơ bùng nổ dân số vẫn tiềm ẩn, lực lượng lao động trẻ và tương đối dồi dào nhưng lại gây sức ép rất lớn về việc làm và các vấn đề xã hội khác. Với những nước nông nghiệp, kinh tế kém phát triển, người già, người cao tuổi ở nông thôn vẫn tiếp tục tham gia lao động, sản xuất và phần đông trong số họ vẫn là những lao động chính, thậm chí là trụ cột kinh tế của nhiều hộ gia đình; nhiều trẻ em ở nông thôn phải tham gia công việc đồng áng, sản xuất phụ giúp gia đình ngoài giờ lên lớp...Đây là vấn đề có tính đặc thù mà trong quá trình thực hiện CNH, HĐH và CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn các nhà hoạch định chính sách phải quan tâm. Cơ cấu về giới: thể hiện tỷ lệ giữa lao động nam giới và nữ giới trong tổng số lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn. Cơ cấu về giới trong lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn phần nào phản ánh sự bình đẳng giới trong xã hội và kết quả của cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ. Trong cơ cấu về giới của lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn các nước đang phát triển, lao động nữ luôn chiếm tỷ lệ cao. Phụ nữ thường giữ một vai trò trụ cột trong sản xuất nông nghiệp, là lực lượng rất quan trọng tạo ra của cải vật chất và xây dựng nông thôn. Do dân số tiếp tục tăng, diện tích ruộng đất bình quân đầu người ngày càng có xu hướng giảm đi trong xu thế đô thị hoá, việc làm thiếu...buộc phần lớn lực lượng lao động nam giới ở nông thôn phải ra thành phố hoặc nơi xa quê hương để làm ăn, kiếm sống. Gánh nặng của công việc đồng áng, nuôi dạy con cái, chăm sóc người già...đè nặng lên đôi vai của người phụ nữ. Chính vì vậy, quá trình CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay đồng thời phải là quá trình thực hiện triệt để hơn cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ. Bình đẳng về giới thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN mà chúng ta đã và đang xây dựng, đồng thời cũng là một trong những tiêu chí chính thức để Ngân hàng thế giới đánh giá chính sách, thể chế quốc gia (Country Policy and Institutional Assessment - CPIA) và xếp hạng từng nước trên thế giới [39, tr.27]. Cơ cấu trình độ: Trước hết là trình độ văn hoá cơ bản của lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn. Trình độ học vấn phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống giáo dục phổ thông và kết quả của việc thực hiện phổ cập giáo dục trên diện rộng. Học vấn là cơ sở cho việc tiếp thu và nâng cao trình độ kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ. Được đào tạo kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, lực lượng lao động nông nghiệp có điều kiện tiếp thu khoa học, công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá; mặt khác lao động nông nghiệp có cơ hội để chuyển đổi ngành, nghề, chuyển đổi lĩnh vực lao động , sản xuất. Cơ cấu ngành, nghề: Cơ cấu ngành, nghề trong nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phát triển hết sức đa dạng, phong phú theo hướng: một số ngành nghề sẽ dần biến mất hoặc bị mai một; nhiều ngành nghề khác sẽ ra đời và phát triển nhanh chóng cùng với một số ngành, nghề truyền thống được khôi phục, chấn hưng theo hướng “hiện đại hoá”, ví như các nghề thủ công truyền thống ở nông thôn đang có xu hướng kết hợp sử dụng các công cụ máy móc, kỹ thuật tiên tiến, vừa góp phần giảm nhẹ mức nặng nhọc, giải phóng lao động, vừa nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của sản xuất. Trên thực tế hiện nay, cơ cấu ngành nghề của lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn ở những quốc gia như Việt Nam còn rất bất hợp lý: lao động nông nghiệp chiếm ưu thế, trong khi lao động công nghiệp, xây dựng trên địa bàn nông thôn, lao động dịch vụ phi nông nghiệp chậm phát triển, lao động ngành nghề truyền thống chậm được khôi phục; trong lao động nông nghiệp, lao động trồng trọt là chủ yếu và ngay trong lao động trồng trọt thì lao động trồng lúa, cây lương thực vẫn chiếm đa số. Cơ cấu vùng lãnh thổ: thể hiện sự phân bố lực lượng lao động theo không gian địa lý và có thể được chuyển dịch, hình thành một cách tự giác hoặc tự phát. Khi lực lượng lao động xã hội nói chung và lao động nông nghiệp, nông thôn nói riêng có sự chuyển dịch, phân bố tự giác, hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tiềm năng, lợi thế so sánh của từng vùng miền, địa phương đồng thời mang lại cơ hội cho sự phát triển đồng đều của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong các bộ phận cấu thành của CCLĐ nông nghiệp, nông thôn, cơ cấu trình độ và cơ cấu ngành nghề là quan trọng hơn cả bởi nó quyết định hiệu quả của CDCCLĐ theo yêu cầu của phát triển kinh tế, quyết định số lượng lao động nông nghiệp nhiều hay ít trong mối tương quan với lực lượng lao động của các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. 1.1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn, mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu lao động Giai đoạn đầu của phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, cơ cấu lao động được hình thành trên cơ sở phân công lao động theo giới tính. Thời kỳ này, đàn ông thì săn bắn, đánh cá; đàn bà chăm sóc việc nhà như nuôi con, chế biến thức ăn, may vá, trồng trọt...Trong quá trình săn bắn, động vật săn bắt được càng nhiều, không chỉ đáp ứng nhu cầu bữa ăn hàng ngày mà còn có dư để nuôi, nhốt để dành. Và việc phát hiện những động vật có thể thuần dưỡng, sinh sôi nẩy nở thành bầy đàn, cung cấp cả thịt, sữa, da...đã tách một bộ phận lao động chuyên đảm trách việc thuần dưỡng, chăn nuôi. Dần dần việc chăn nuôi đã trở thành ngành lao động chủ yếu của một số bộ lạc và việc tách các bộ lạc chăn nuôi ra khỏi các bộ lạc lớn đã đánh dấu sự CDCCLĐ lớn lần đầu tiên: ngành chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, lao động chăn nuôi tách khỏi lao động trồng trọt. Cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu, lao động nghề dệt, chế tạo đồ kim loại và các nghề thủ công khác ngày càng được chuyên môn hoá cao, sản phẩm đa dạng, phong phú, trình độ sản xuất ngày càng hoàn hảo và dần tách khỏi lao động nông nghiệp. Sự thay đổi đó luôn mang tính xã hội và sự CDCCLĐ xã hội lớn lần thứ hai diễn ra: tiểu thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Sự xuất hiện và phát triển của sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trực tiếp góp phần tạo ra một khối lượng ngày càng lớn hơn những sản phẩm có giá trị trao đổi. Nhu cầu trao đổi ngày càng lớn đã dần làm xuất hiện bộ phận lao động chuyên đảm trách việc mua bán, trao đổi hàng hoá phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của xã hội. CDCCLĐ xã hội lớn lần thứ ba xuất hiện: thương nghiệp tách khỏi sản xuất. Lúc này, CCLĐ xã hội đã có sự phân định theo cơ cấu ngành tương đối rõ nét, đó là: lao động công nghiệp (chủ yếu là tiểu thủ công nghiệp); lao động nông nghiệp (bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) và dịch vụ (bao gồm một bộ phận lao động không tham gia sản xuất trực tiếp mà hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, làm công việc trao đổi sản phẩm - đó là tầng lớp thương nhân). Chủ nghĩa tư bản (CNTB) với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn qúa trình CDCCLĐ xã hội. Công cụ cơ khí ra đời thay thế cho công cụ thủ công làm cho công nghiệp hoàn toàn tách khỏi nông nghiệp và thúc đẩy hơn nữa sự CDCCLĐ trong nội bộ ngành công nghiệp, nông nghiệp nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nói chung. Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang CNTB ở thế kỷ XV, các quan điểm kinh tế thị trường, trong đó có vấn đề CCKT, CCLĐ và CDCCLĐ...được nghiên cứu một cách có hệ thống hơn. Đặc biệt, là được các nhà kinh tế học phát triển đề cập đến từ nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta có thể xem xét quan điểm của vài đại diện trong số họ: Nhà kinh tế học người Đức E. Engel phát hiện ra quy luật tiêu thụ sản phẩm từ cuối thế kỷ XIX. Ông cho rằng: khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm sẽ thấp đi, do vậy tỷ trọng nông nghiệp - ngành kinh tế với chức năng chủ yếu là sản xuất lương thực, thực phẩm - cũng sẽ giảm khi. Quy luật mà E.Engel phát hiện có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho tiêu dùng các loại sản phẩm khác nhau. Các nhà kinh tế học đương thời gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm tất yếu; hàng tiêu dùng công nghiệp là sản phẩm lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Khi thu nhập tăng thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã gián tiếp góp phần làm rõ xu hướng của CDCCLĐ trong quá trình phát triển kinh tế, A.Fhiser đã phân nền sản xuất xã hội làm 3 khu vực. nông nghiệp, lâm nghiệp; công nghiệp chế biến, xây dựng; vận tải, thông tin, thương nghiệp. Các quốc gia có thể phân phối tổng số lao động của mình vào 3 khu vực trên. Theo ông, trong quá trình phát triển, sự tăng cường sử dụng máy móc, áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các phương thức canh tác mới sẽ tác động đến CDCCLĐ ở 3 khu vực này. Nông dân nâng cao năng suất lao động, nên để đảm bảo lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như cũ và do vậy, tỷ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm xuống một cách tương đối. Dựa vào các số liệu thống kê đã thu thập được, A.Fhiser đi đến kết luận: tỷ lệ giảm này có thể từ 30% đối với các nước chậm phát triển xuống còn 11 - 12% ở các nước công nghiệp phát triển và trong những điều kiện đặc biệt có thể xuống 5%. Lao động sẽ được thu hút vào khu vực hai và khu vực ba ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này, đặc biệt là với khu vực thứ ba [100, tr.87]. Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis khởi xướng đưa ra những ý kiến cụ thể hơn về CDCCLĐ ngành trong quá trình CDCCKT. Ông cho rằng: mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp xuất phát từ tư tưởng của Ricardo, ông lưu ý đến mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp trong việc giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn: Việc dịch chuyển lao động sẽ làm cho tỷ trọng lao động trong nông nghiệp ngày càng giảm, nhưng vẫn giữ mức sản lượng lương thực không đổi, thậm chí còn tăng lên do năng suất lao động trong nông nghiệp được cải thiện. Theo ông, để tăng hiệu quả của sự tác động qua lại giữa hai khu vực, cần kết hợp với việc giảm tốc độ tăng dân số, tạo điều kiện CDCCLĐ xã hội phát triển [100, tr.82]. Trong lý thuyết các giai đoạn phát triển kinh tế của mình, W. Rostow lại chia quá trình phát triển kinh tế của một nước thành năm giai đoạn khác nhau và theo đó, qúa trình CDCCLĐ cũng sẽ được thực hiện từ thấp đến cao tương ứng với các giai đoạn phát triển kinh tế. Theo W. Rostow: - Giai đoạn thứ nhất - giai đoạn xã hội truyền thống: sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu trong hoạt động kinh tế. Lao động chủ yếu bằng công cụ thủ công, khoa học - kỹ thuật chưa phát triển nên năng suất lao động thấp. Hoạt động chung của xã hội kém linh hoạt, sản xuất hàng hoá chưa phát triển và sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Do vậy, ở giai đoạn này, lao động nông nghiệp chiếm tuyệt đại bộ phận lao động xã hội. - Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: là giai đoạn những điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện. Sự tiếp cận và áp dụng các thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp đã tạo tiền đề cho sự CDCCLĐ nông nghiệp sang các ngành khác. - Giai đoạn cất cánh: tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư tăng từ 5 - 10%; công nghiệp và nông nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật. Công nghiệp đóng vai trò “lĩnh vực đầu tàu” với tốc độ tăng trưởng cao, lợi nhuận lớn tạo điều kiện tái đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Lao động nông nghiệp được thu hút vào khu vực đô thị và dịch vụ ngày càng nhiều, tạo ra sự thay đổi về nhận thức và lối sống của người nông dân. - Giai đoạn trưởng thành: nhiều ngành, nghề công nghiệp mới, hiện đại ra đời và phát triển. Cơ giới hoá trong nông nghiệp đã tạo ra bước đột phá trong tăng năng suất lao động nông nghiệp; lao động nông nghiệp dịch chuyển mạnh sang các ngành nghề mới ở nông thôn, góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới và thúc đẩy kinh tế đối ngoại phát triển. - Giai đoạn tiêu dùng cao: thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh. CDCCLĐ theo chiều hướng: tăng tỷ lệ dân cư đô thị và tăng tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn tay nghề cao; nhu cầu xã hội tăng cao đã kích thích các ngành dịch vụ ra đời và phát triển [100, tr.85 - 86]. Các nhà kinh tế học châu Á mà đại diện tiêu biểu là nhà kinh tế học Nhật Bản Harry Toshima lại đưa ra lý thuyết tăng trưởng kinh tế của các nước châu Á gió mùa. Theo ông, mô hình tăng trưởng của A. Lewis không có ý nghĩa thực tế với tình trạng dư thừa lao động trong nền nông nghiệp gió mùa. Bởi vì, nền nông nghiệp lúa nước vẫn thiếu lao động trong thời điểm đỉnh cao của thời vụ và chỉ dư thừa lao động trong mùa nhàn rỗi. Vì vậy, ông đưa ra mô hình tăng trưởng mới. Theo đó, sự phát triển được bắt đầu bằng việc giữ lại lao động nông nghiệp và tạo thêm nhiều hoạt động sản xuất tốt hơn trong những tháng nông nhàn bằng cách tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng như trồng thêm rau, quả, cây lấy củ; đánh cá, chăn nuôi gà vịt và các gia súc khác...đồng thời sử dụng lao động nông nghiệp vào các ngành sản xuất công nghiệp cần nhiều lao động. Việc tạo thuận lợi để có việc làm đầy đủ trong những thời điểm nông nhàn sẽ nâng cao mức thu nhập hàng năm của nông dân và sẽ mở rộng được thị trường trong nước cho các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, lực lượng lao động sẽ được sử dụng hết [101, tr.345 - 346]. Mặc dù cách tiếp cận vấn đề có thể khác nhau nhưng lý luận kinh tế nói chung và lý luận về CDCCLĐ xã hội của các học giả tư sản cũng có những điểm tương đồng. Do chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản nên cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề đều có hạn chế như nhau là còn mang tính chủ quan, không toàn diện, triệt để. Theo quan điểm mácxít, trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, sự phân công lao động, CDCCLĐ xã hội đều có hai mặt: Mặt thứ nhất gồm các yếu tố có liên quan đến sự phát triển của lực lượng sản xuất, bởi vì sự phân công lao động xã hội trước hết là sự phân chia tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất theo các ngành kinh tế. C. Mác đã từng khẳng định, lao động được tổ chức và phân công theo nhiều cách khác nhau tuỳ thuộc vào những công cụ và tư liệu được sử dụng. Mặt thứ hai có liên quan chặt chẽ đến đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội mà trong đó diễn ra quá trình CDCCLĐ xã hội, nó được quy định bởi quan hệ sản xuất thống trị trong phương thức sản xuất này hay phương thức sản xuất khác. Khi trình bày vấn đề CDCCLĐ xã hội, các học giả tư sản luôn tìm cách né tránh khía cạnh thứ hai tức là hình thái kinh tế - xã hội của CDCCLĐ. Khoa kinh tế học tư sản chỉ luôn tìm cách gói gọn phân công lao động xã hội trong vấn đề phát triển của lực lượng sản xuất và cố tình làm lu mờ mặt kinh tế - xã hội của vấn đề này dưới CNTB. Vấn đề CDCCLĐ xã hội được các nhà kinh điển mácxít nghiên cứu gắn với sự phát triển của phương thức sản xuất TBCN. Các ông mới chỉ đề cập vấn đề CDCCLĐ xã hội dưới CNXH và chủ nghĩa cộng sản như là một dự đoán về tương lai. Khác với các nhà kinh tế học phát triển, trong học thuyết về phân công lao động xã hội, về CDCCLĐ, kinh tế học mácxít không những chỉ rõ bản chất các điều kiện, tiền đề cần thiết mà còn vạch ra khuôn khổ thể chế quyết định sự thay đổi về chất cuộc cách mạng công nghiệp, cơ sở của sự phát triển của nền sản xuất TBCN. Giải thích về sự phân công lao động trong xã hội, C.Mác viết: “Toàn bộ những giá trị sử dụng hay vật thể hàng hoá khác thể hiện toàn bộ những lao động có ích, cũng nhiều hình, nhiều vẻ, cũng chia ra bấy nhiêu loại, giống, họ, nhánh và biến chủng khác nhau. Nói tóm lại là thể hiện sự phân công lao động xã hội, sự phân công lao động xã hội này là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, mặc dầu ngược lại, sản xuất hàng hoá không phải là điều kiện tồn tại của sự phân công lao động xã hội” [56, tr.72]. Và, “Phân công lao động, với tư cách là một tổng thể các hình thức hoạt động sản xuất đặc thù, là trạng thái chung của lao động xã hội, xét về mặt vật chất của nó với tư cách là lao động sản xuất ra giá trị sử dụng” [54, tr.21]. Theo C. Mác và V.I. Lênin, cơ cấu của phân công lao động xã hội bao gồm: - Phân công lao động chung theo các ngành lớn. - Phân công lao động đặc thù theo nội bộ ngành. - Phân công lao động theo vùng kinh tế. CDCCLĐ là quá trình phân bố, điều chỉnh lực lượng lao động sang các ngành kinh tế khác nhau theo hướng tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm dần và tỷ trọng lao động trong các ngành khác tăng lên. Trong nội bộ nông thôn, trước hết đó phải là quá trình CDCCLĐ ngay trong nội bộ ngành nông nghiệp thành loại và thứ theo hướng chuyên môn hoá sản xuất, quá trình đó “làm cho các hình thức chế biến sản phẩm tách rời nhau và không ngừng tạo thêm những ngành công nghiệp mới”; và ở trong nông nghiệp, là quá trình “làm nẩy sinh phân ngành chuyên môn hoá và những hệ thống kinh tế” như: hệ thống trồng trọt, hệ thống chăn nuôi...Quá trình đó tạo ra sự trao đổi không ngừng và đến lượt mình sự chuyên môn hoá trở thành cơ sở tất yếu của trao đổi sản phẩm lao động giữa sản phẩm nông nghiệp với sản phẩm công nghiệp và giữa những sản phẩm nông nghiệp khác nhau [51, tr.29 - 31]. Dưới CNXH, cơ sở kinh tế và cơ sở vật chất kỹ thuật mới được ra đời và phát triển. Quá trình CDCCLĐ nói chung và CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn nói riêng sẽ dựa trên cơ sở phát huy mọi năng lực của người lao động. Và như thế, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; sự tách rời giữa lao động trí óc và lao động chân tay sẽ dần được xoá bỏ. Đặc biệt, dưới chủ nghĩa cộng sản người dân được hoàn toàn tự do, lao động được hoàn toàn giải phóng, cùng với sự phát triển rất cao của lực lượng sản xuất xã hội thì quá trình CDCCLĐ sẽ diễn ra với tính tự giác cao độ. C. Mác viết: “Một khi bắt đầu có phân công lao động thì mỗi người đều có một phạm vi lao động nhất định và độc chuyên mà người đó buộc phải nhận lấy và không thể thoát khỏi được; người đó là người đi săn, người đánh cá hoặc người chăn nuôi hoặc là nhà phê phán có tính phê phán và người đó vẫn cứ phải là như thế nếu như không muốn mất các tư liệu của mình; còn trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động, độc chuyên, mà mỗi người có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào mà mình thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán tuỳ, theo sở thích của mình...” [55, tr.47]. Qua những nghiên cứu trên đây có thể thấy: sự thay đổi của CCLĐ từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với yêu cầu phát triển được gọi là sự CDCCLĐ. CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có do đó, nội dung của CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn chính là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng một cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ thành cơ cấu mới phù hợp hơn với yêu cầu của CDCCKT. Như vậy có thể nói: CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn trong tiến trình CNH, HĐH là quá trình đào tạo, đào tạo lại, điều chỉnh, bố trí, phân công lại lực lượng lao động nông nghiệp, nông thôn theo yêu cầu của từng thời kỳ phát triển kinh tế nói chung và CDCCKT nói riêng. CDCCLĐ và CDCCKT có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Cơ cấu kinh tế (CCKT) quốc dân có nhiều loại và tuỳ theo mục đích nghiên cứu, quản lý có thể được xem xét dưới các góc độ khác nhau. CCLĐ là một bộ phận gắn liền với CCKT bởi lao động là một trong những yếu tố quan trọng nhất của sản xuất, của nền kinh tế. CCKT không bất biến mà luôn có sự vận động, chuyển dịch cần thiết ngày càng hợp lý hơn trong điều kiện không gian và thời gian cụ thể, trong điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội cụ thể và thích hợp với mỗi nước, mỗi vùng nhất định do vậy CDCCLĐ cũng là một hiện tượng phổ biến, thường xuyên. CCKT quốc dân có ba bộ phận hợp thành là: cơ cấu ngành kinh tế; cơ cấu vùng, lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Nếu sở hữu là cơ sở cho sự hình thành và phát triển cơ cấu thành phần kinh tế, thì CDCCLĐ lại là cơ sở cho sự hình thành, phát triển và chuyển dịch của cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, lãnh thổ. Nhưng suy cho cùng CCKT và CDCCKT cũng là kết quả của phân công và phân công lại lực lượng lao động xã hội, kết quả của quá trình CDCCLĐ. Mặc dù vậy, CDCCKT và CDCCLĐ đều có tính độc lập tương đối. Thực tế đã chứng minh: trong khi lực lượng lao động của ngành công nghiệp hoặc dịch vụ của nền kinh tế không thay đổi (thậm chí có thể giảm), nhưng tỷ trọng GDP của ngành đó vẫn tăng nếu chính sách vốn đầu tư cho phát triển của ngành được cải thiện hoặc các doanh nghiệp của ngành thực hiện đổi mới thiết bị công nghệ. Xét ở tầm vĩ mô, nhà nước có thể ưu tiên phát triển ngành này hay ngành khác thông qua việc ban hành và thực hiện các chính sách vĩ mô cụ thể như: tài chính, tín dụng, gọi vốn đầu tư nước ngoài...làm cho tỷ trọng GDP của ngành tăng lên, trong khi cơ cấu lao động vẫn không thay đổi. Đặc biệt, thời gian qua, ở Việt Nam, chúng ta đang tích cực thực hiện chủ trương đổi mới, xắp xếp lại sản xuất của khu vực kinh tế nhà nước thông qua việc thực hiện cổ phần hoá, giao bán, khoán, cho thuê...và kết quả thu được là hiệu quả sản xuất, kinh doanh được cải thiện đáng kể, tỷ trọng GDP tăng cao. Nhưng bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước cũng đang phải tìm lời giải cho một bài toán khá phức tạp là sắp xếp, chuyển đổi, tạo việc làm mới cho hàng vạn lao động dôi dư. Như vậy, mặc dù GDP tăng lên, nhưng thị trường lao động ở khu vực này dường như đã “đóng băng”, không có khả năng tiếp nhận thêm lao động nông nghiệp chuyển sang. Mặt khác, kết quả CDCCLĐ thường chậm hơn so với CDCCKT vì phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là công tác hướng nghiệp và kết quả của giáo dục - đào tạo. Thông qua hội chợ việc làm được tiến hành ở nhiều địa phương những năm gần đây cho thấy: nhu cầu tuyển dụng lao động của các xí nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp tư nhân là không nhỏ, nhưng không được đáp ứng do phần đông các ứng viên không đủ năng lực, trình độ theo yêu cầu của công việc. 1.1.2. Nội dung chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn và những nhân tố tác động đến quá trình đó trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay 1.1.2.1. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn nước ta CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn nước ta là quá trình đồng thời phải giải quyết ba vấn đề lớn là: Nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Nội dung cơ bản của CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay là quá trình phá thế thuần nông, chuyển lao động ngành nông nghiệp có năng suất thấp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao hơn (trước hết là ngay trên địa bàn nông thôn) để từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội, tạo ra nhiều của cải vật chất, sản phẩm dịch vụ; cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân; thực hiện hiện đại hoá nền kinh tế nông thôn trên cơ sở cơ cấu đa ngành, đa sản phẩm. Hay nói một cách khác: CDCCLĐ nông nghiệp, nông thôn là quá trình giảm số lượng tuyệt đối và tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng số lượng tuyệt

Tìm luận văn, tài liệu, khoá luận - 2024 © Timluanvan.net